Những biểu hiện
Những biểu hiện ở thời kỳ đầu cần lưu ý đó là, những người trên 35 tuổi, có triệu chứng ho dai dẳng, đặc biệt là ho từng cơn không dứt, trong thời gian ngắn không tìm ra được nguyên nhân; sau khi bị cảm mạo hay viêm khí quản, chữa trị mãi mà không hết chứng ho và triệu chứng càng lúc càng trầm trọng; khạc đàm thường có dính máu, lồng ngực thỉnh thoảng đau nhức dữ dội không có chỗ cố định; từng bị bệnh lao phổi hoặc viêm khí quản mãn tính, những cơn ho có tính cách quy luật thình lình thay đổi; trước không có phát rét hay phát sốt, đột nhiên hơi thở trở nên ngắn, tức ngực, lồng ngực chứa nước; có bệnh viêm phổi không dứt hẳn, triệu chứng trở đi trở lại hoặc càng lúc càng nặng; đau thấp khớp mà không rõ nguyên nhân, cơ bắp đau nhức dữ dội không dứt, đau tuy có phát sốt nhưng triệu chứng toàn thân không rõ; những người đã hút thuốc một thời gian dài, trong gia tộc có người cũng bị bệnh ung thư, công việc hằng ngày thường xuyên tiếp xúc với chất độc hại.
Ở thời kỳ sau của bệnh, triệu chứng thường gặp là ho dữ dội, đàm có máu hoặc ho ra máu tươi, ngực đau nhói, phát sốt, thở khó, các khớp xương, cơ bắp thịt, thần kinh đau nhức...
Chữa trị theo cổ truyền
Theo lương y Hoài Vũ, ung thư phế quản - phổi là một trong những loại ung thư khó chữa, phần lớn bệnh được phát hiện ở giai đoạn muộn. Chỉ có khoảng 10% số bệnh nhân sống trên 5 năm. Ở phương diện y học cổ truyền, việc chữa trị dựa theo từng thể bệnh, mà có những bài thuốc dùng thích hợp.
Chẳng hạn, với thể âm hư đờm nhiệt - triệu chứng lâm sàng là ho ít đờm hoặc đờm trắng dính tí máu, miệng khô, sốt buổi chiều, ra mồ hôi trộm, người gầy ốm..., thì phép trị là "dương âm nhuận phế, thanh hóa đờm nhiệt", bài thuốc dùng gồm các vị thuốc: bắc sa sâm 16g, mạch môn 12g, thiên môn 12g, thạch hộc 12g, tang bạch bì 12g, sinh địa 12g, huyền sâm 12g, qua lâu nhân 6g, tử uyển 12g, ngư tinh thảo 12g, bán chi liên 12g, sơn đậu căn 12g, lô căn 12g, ý dĩ 20g, tỳ bà diệp 12g, đông qua nhân 12g, a giao 8g, xuyên bối mẫu 8g, hái cáp xác 20g, sinh thạch cao 8g.
Chẳng hạn, với thể âm hư đờm nhiệt - triệu chứng lâm sàng là ho ít đờm hoặc đờm trắng dính tí máu, miệng khô, sốt buổi chiều, ra mồ hôi trộm, người gầy ốm..., thì phép trị là "dương âm nhuận phế, thanh hóa đờm nhiệt", bài thuốc dùng gồm các vị thuốc: bắc sa sâm 16g, mạch môn 12g, thiên môn 12g, thạch hộc 12g, tang bạch bì 12g, sinh địa 12g, huyền sâm 12g, qua lâu nhân 6g, tử uyển 12g, ngư tinh thảo 12g, bán chi liên 12g, sơn đậu căn 12g, lô căn 12g, ý dĩ 20g, tỳ bà diệp 12g, đông qua nhân 12g, a giao 8g, xuyên bối mẫu 8g, hái cáp xác 20g, sinh thạch cao 8g.
Với thể khí âm hư - triệu chứng lâm sàng gồm ho nhỏ tiếng ít đờm, đờm lỏng nhớt, khó thở, tiếng nói nhỏ, mệt mỏi, ăn ít, gầy ốm, miệng khô, chất lưỡi đỏ..., thì phép trị là "ích khí dưỡng âm, thanh nhiệt hóa đàm", bài thuốc dùng gồm: đảng sâm 20g, mạch môn 12g, hoài sơn 12g, thục địa 8g, xuyên bối mẫu 8g, ngũ vị 6g. Với thể huyết ứ trệ - triệu chứng lâm sàng gồm khó thở, sườn ngực đau tức, váng đầu, ho đàm khó khạc, đàm có dính máu, dãn tĩnh mạch thành ngực hoặc tràn dịch màng phổi, môi lưỡi tím đỏ, rêu lưỡi mỏng vàng..., phép trị là "hành khí hoạt huyết, hóa đàm, nhuyễn kiên", bài thuốc dùng trong trường hợp này gồm: hạ khô thảo 20g, hải tảo 20g, bối mẫu 12g, xích nhược 12g, đương quy 12g, xuyên sơn giáp 12g, hồng hoa 6g, qua lâu 6g.
Cách sắc (nấu) những bài thuốc trên như sau: nước đầu cho các vị thuốc cùng 3 chén nước (độ 750 ml) nấu còn 250 ml; nước hai cũng cho nước vào nấu như trên và để còn 250 ml; hòa hai nước lại, chia làm 3 lần dùng trong ngà