Trang chủ
» Archives for
tháng 2 2012
Ảnh minh họa: Allaboutparasites.com. |
"Gia đình tôi không thể tin vào điều này. Chồng tôi đã đi khám thêm vài nơi nữa nhưng kết quả vẫn như vậy. Trước đó, anh ấy cứ nghĩ mình bị đau dạ dày, đại tràng thông thường thôi. Cũng mấy lần có người khuyên nên nội soi, nhưng nghe nói cho cái ống đó vào người khó chịu lắm, nên chồng tôi không đi", vợ bệnh nhân 48 tuổi cho biết.
Hiện anh Tùng vừa được phẫu thuật nhưng vì ung thư đã di căn khắp ổ bụng và gan nên cơ hội và thời gian sống của anh còn rất thấp.
Tiến sĩ Nguyễn Tuyết Mai, Trưởng khoa nội 1, Bệnh viện K Hà Nội cho biết, đa số bệnh nhân mắc bệnh này ở nước ta được phát hiện muộn nên tiên lượng rất xấu. Có tới 3/4 số người bệnh đi khám khi đã quá đau, bị rối loạn tiêu hóa nghiêm trọng, gầy sút nhanh - những biểu hiện của ung thư dạ dày ở giai đoạn nguy hiểm.
Theo bác sĩ Tuyết Mai, mỗi năm Việt Nam có trên 15.000 ca mới được chẩn đoán ung thư dạ dày và hơn 11.000 ca tử vong vì bệnh này. Đây là bệnh ung thư phổ biến hàng thứ 3 trong số 10 loại ung thư nguy hiểm thường gặp tại nước ta. Nam giới có tỉ lệ mắc bệnh cao hơn phụ nữ khoảng 3 lần. Bệnh hay gặp nhất ở tuổi trung niên, tuy nhiên cũng có những người dưới 30 tuổi đã mắc.
Bà Tuyết Mai cho rằng, lý do quan trọng khiến phần lớn bệnh nhân ung thư dạ dày được chẩn đoán muộn là do bệnh không có những triệu chứng đặc hiệu so với các bệnh lý thông thường về dạ dày, tiêu hóa, trong khi rất ít người có thói quen đi khám định kỳ.
Ở giai đoạn sớm của ung thư dạ dày, người bệnh có thể thấy khó tiêu, nóng rát vùng thượng vị, ăn không thấy ngon miệng. Giai đoạn trung bình họ thường mệt mỏi, cảm giác đầy bụng sau khi ăn... Khi đã vào giai đoạn muộn, người bệnh sẽ thường xuyên đau bụng, nôn và buồn nôn, đi kèm với rối loạn tiêu hóa, sút cân, nuốt nghẹn, đại tiện ra phân đen (do xuất huyết tiêu hóa)...
"Những triệu chứng sớm của bệnh khá mơ hồ và khó phân biệt với các loại viêm loét dạ dày thông thường khác nên khiến nhiều người nhầm tưởng và không đi kiểm tra cụ thể", bác sĩ nói.
Giáo sư Nguyễn Bá Đức, Phó chủ tịch hội ung thư Việt Nam cho biết, dạ dày là một tạng rỗng, có thể hình dung nó như một quả bóng, vì thế khám bên ngoài sẽ không thể thấy được những tổn thương bên trong. Việc chiếu chụp, siêu âm vẫn bỏ sót người mắc bệnh và thường chỉ phát hiện khi bệnh đã ở giai đoạn muộn, u đã lớn. Không có cách nào khác là phải nội soi để phát hiện ung thư dạ dày.
"Đối với ung thư dạ dày, việc phát hiện sớm có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Bệnh nhân mắc ung thư này ở giai đoạn khởi phát chỉ cần phẫu thuật hớt niêm mạc, vẫn giữ nguyên được dạ dày và cơ hội khỏi là 99%. Bệnh phát hiện càng muộn, việc điều trị càng khó khăn và cơ hội sống càng ít ỏi. Hơn nữa, nội soi dạ dày rất an toàn", bác sĩ cho biết.
Theo bác sĩ Tuyết Mai, hiện tại vẫn chưa tìm ra nguyên nhân trực tiếp gây ung thư dạ dày nhưng một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh: Do nhiễm vi khuẩn Helicobacter Pylori (chiếm khoảng 25-50% số ca mắc bệnh); Do chế độ ăn: ăn mặn, các thức ăn có chứa nhiều nitrat, béo phì: Do hút thuốc lá, uống rượu. Khoảng 10% số bệnh nhân ung thư dạ dày do di truyền và có yếu tố gia đình.
Tiến sĩ Yoon Koo Kang, Khoa chống ung thư, trường Y khoa Asan, Đại học Ulsan, Seoul, Hàn Quốc cho biết, ở Hàn Quốc, cho biết hơn một nửa số bệnh nhân ung thư dạ dày được chẩn đoán và phẫu thuật ngay từ giai đoạn 1 nên thời gian sống được kéo dài hơn nhiều. Ông chia sẻ cách phát hiện sớm bệnh chính là việc thực hiện chương trình tầm soát toàn quốc: áp dụng cho những người từ 40 tuổi trở lên thực hiện soi dạ dày 2 năm một lần.
Theo giáo sư Đức, ở Việt Nam cũng nên thực hiện điều này. Tuy nhiên, nếu chưa có điều kiện thì cần phải đi khám và nội soi dạ dày ngay khi có các triệu chứng như đau vùng mỏ ác, nôn và buồn nôn, khó tiêu, từng bị chẩn đoán viêm loét dạ dày hay bị các rối loạn tiêu hóa mà điều trị nội khoa lâu không đỡ...
- Một số người cứ nghĩ mình bị nhiệt miệng và không đi chữa, cuối cùng được chẩn đoán là ung thư miệng. Ung thư khoang miệng là một trong 10 bệnh ung thư thường gặp nhất ở Việt Nam. Hằng năm, số lượng bệnh nhân mới ung thư khoang miệng tới 20.000, chiếm từ 6%-15% tổng số các loại ung thư. Tuy là loại ung thư dễ dàng quan sát được nhưng phần lớn bệnh nhân ung thư khoang miệng lại đến khám ở giai đoạn muộn, khi tổn thương ung thư đã lan rộng. Bệnh dễ bị bỏ qua bởi những tổn thương khiến người bệnh lầm tưởng họ chỉ bị những viêm nhiễm vùng miệng đơn giản. Các yếu tố nguy cơ
Một số yếu tố nguy cơ khác như nhiễm virus gây mụn giộp (Herpes), virus gây u sùi (HPV), thiếu máu Fanconi... cũng được cho là có liên quan đến ung thư khoang miệng. Ung thư khoang miệng thường gặp hơn cả là ung thư lưỡi, ung thư niêm mạc má và ung thư môi. Bệnh dễ bị bỏ qua
Có nhiều triệu chứng để nhận biết ung thư khoang miệng trong đó thường gặp nhất là những vết loét không liền ở lưỡi, sàn miệng hoặc niêm mạc má. Các vết loét này có thể đau, chảy máu nhưng có trường hợp lại không gây khó chịu gì. Khi tổn thương lớn lên mới xuất hiện thêm nhiều triệu chứng như nuốt đau, tai đau, thay đổi giọng nói, không phối hợp được động tác nuốt hoặc xuất hiện hạch cổ. Người bệnh có những tổn thương bị tái phát nhiều lần trong miệng, xuất hiện một điểm sưng tấy hoặc nổi một u ở bất kỳ điểm nào trong miệng hoặc ở cổ. Vì thế khi phát hiện một vết loét ở trong miệng dù cho có liên quan với chấn thương hay bệnh viêm loét miệng nếu sau 3 tuần không khỏi, nên tìm đến bác sĩ để khám xác định bệnh. Ung thư khoang miệng khi được phát hiện và điều trị sớm sẽ mang lại hiệu quả cao. Khi nào cần đi khám bệnh Hãy đến gặp bác sĩ nếu có: * Vết loét trong miệng không liền * Có khối hoặc những mảng trắng, đỏ hoặc đen trong miệng * Cảm thấy đau kéo dài hoặc mất cảm giác bên trong miệng * Chảy máu trong miệng lặp lại nhiều lần * Bất kỳ sự thay đổi nào khi quan sát hoặc thay đổi cảm giác của mô mềm trong miệng Điều trị
Phẫu thuật: Phụ thuộc vào kích thước và vị trí của khối u. Có thể cắt bỏ u mà không tác động tới các mô xung quanh. Tuy nhiên, nếu u đã xâm lấn mô xung quanh thì phẫu thuật mở rộng với nhiều sự bổ sung phức tạp. Xạ trị: Để tiêu diệt tế bào ung thư, có khi kết hợp với hoá chất để điều trị u lớn. Hoá trị: Dùng thuốc để phá huỷ tế bào ung thư, qua đường tĩnh mạch hoặc đường uống. Thuốc ức chế sự hình thành mạch: Thuốc ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu mới cần cho sự phát triển của ung thư. Phẫu thuật tái tạo lại cấu trúc: Tái tạo lại cấu trúc miệng, điều chỉnh những khó khăn về vấn đề nhai, nuốt, nói và thở. Phục hồi chức năng: Việc điều chỉnh sau phẫu thuật giúp vượt qua những khó khăn về nói và nuốt. BS Đào Xuân Dũng |
Ảnh: Sciencephoto |
© Thông tin Y học - Screening of Non-communicable disease Project
Dự án "Tầm soát các bệnh không lây nhiễm" - Scon Project
Văn phòng Scon Project: 128 Lam Sơn - Thành phố Hồ Chí Minh - Việt Nam