Bị viêm khí quản nên ăn uống như thế nào

Do vấn đề về thời tiết có những sự thay đổi đột ngột, dẫn đến bệnh lý viêm khí quản thường gặp, hoặc do cảm lạnh, hút thuốc lá, hít phải nhiều bụi ...
Bên cạnh việc sử dụng thuốc điều trị thì ngoài ra việc ăn uống ra sao để tăng hiệu quả chữa bệnh cũng là một điều khá quan trọng

an-uong-khi-viem-khi-quan

Cháo rau diếp cá: Diếp cá 30g, gạo lức 50g. Rửa sạch diếp cá, đổ nước vừa đủ, đun sôi cho gạo đã đãi sạch vào nấu thành cháo. Ăn nóng, ngày 2 lần, cứ 10 ngày là một liệu trình.

Cháo thịt ngỗng: Thịt ức ngỗng 100g, nấm mèo 25g, thịt chân giò chín 15g, hành 5g, gừng tươi 5g, rượu 10g, muối tinh 7g, bột ngọt 2g, dầu thơm vani 25g, nước luộc thịt ngỗng 1 lít, tiêu bột 2g, gạo nếp 100g. Cắt nhỏ thịt ức ngỗng như hạt gạo, nấm, thịt chân giò cũng cắt nhỏ như hạt lựu, gạo nếp đãi sạch cho vào nồi đất, cho nước thịt ngỗng vào nấu, đến khi gạo nở thì cho thịt ngỗng và các thứ vào nấu thành cháo đặc mới cho dầu thơm vani, rắc bột tiêu vào là được. Ngày ăn 1 bát, chia 2 - 3 lần ăn.
Cháo trai: Trai khô 25g, thịt gà 50g, rượu 15g, nấm mèo 50g, muối tinh 5g, mỡ lợn 25g, gạo te 100g, gừng, hành, bột tiêu vừa đủ. Các thứ làm sạch, chế biến xong cho gạo vào nồi với trai khô, thịt gà, nước 1,5 lít nấu thành cháo. Cháo chín cho mỡ lợn, muối, gừng, hành, hạt tiêu vào, đun qua, quấy đều là được. Ngày ăn 1 bát chia 2 lần.

Cháo lê: Quả lê 500g, ý dĩ nhân 100g, đường phèn 100g. Rửa sạch ý dĩ nhân, ngâm nước, vớt ra để ráo. Lê bỏ hạt, cắt thành quân cờ, cho cả ba thứ vào nồi với 1 lít nước nấu thành cháo. Ngày ăn 1 bát chia 2 lần ăn lúc nóng.

Cháo gừng tươi, sơn trà: Lá sơn trà 15g, gừng tươi 15g, gạo lức 100g, dầu vani, muối vừa đủ. Gạo đãi sạch, gừng thái lát, cho cùng lá sơn trà với nước vừa đủ đun thành cháo rồi cho dầu vani, bột ngọt là được. Ngày ăn một bát chia 2 lần.

Cháo vỏ quýt: Vỏ quýt tươi 30g, gạo lức 50 - 100g. Rửa sạch vỏ quýt, đổ nước vừa đủ, nấu lấy nước, bỏ bã rồi cho gạo đã vo sạch, nấu cháo loãng. Ngày ăn một bát chia 2 lần.

Cháo đình lịch tử (hạt đay): Hạt đay 10g, gạo lức 100g. Sao hạt đay đến khi thơm, để nguội, cho nước đun cô đặc, bỏ bã, cho gạo đã vo sạch, thêm nước vừa đủ, nấu cháo. Ngày ăn một bát chia 2 lần.

Cháo hạt mã đề: Hạt mã đề 15g, gạo lức 50g. Dùng vải bọc hạt mã đề, cho vào nồi đất, cho thêm 200ml nước, nấu còn 100ml, bỏ túi thuốc, cho gạo đã đãi sạch, thêm 400ml nước nấu cháo loãng. Ngày ăn 2 lần lúc cháo nóng.

Canh cá diếc, hạnh nhân: Cá diếc 1 con, hạnh nhân 10g, đường đỏ vừa đủ. Làm sạch cá diếc cho vào nồi cùng hạnh nhân và đường. Dùng nồi đất, nước vừa đủ đun chín nhừ là được. Ăn cá, uống canh.

Canh bách hợp: Bách hợp 100g, đường trắng 50g. Rửa sạch bách hợp cho vào nồi cùng đường trắng, nước vừa đủ, đun khoảng 1 giờ thấy chín nhừ là được. Ăn trong ngày. Tác dụng: bổ âm, dưỡng phế, bổ tâm, trừ phiền.

Canh cải nấu đậu phụ, táo tàu: Cải trắng khô 100g, đậu phụ 50g, táo tàu 10 quả, dầu thực vật, muối tinh vừa đủ. Các thứ chế biến rửa sạch cho vào nồi, đổ nước vừa đủ, ninh chín, cho dầu, muối vào là được. Ăn kèm trong bữa ăn.

Canh phổi lợn nấu lá chanh: Lá chanh 15g, phổi lợn 150 - 200g. Rửa sạch, cho hai thứ vào nồi, đổ nước vừa đủ đun chín thì cho gia vị là được. Ăn phổi, uống canh.

Canh hải sâm, ngân nhĩ: Ngân nhĩ 10g, hải sâm ngâm nở 150g, nước 1lít, rượu trắng, muối, bột ngọt vừa đủ. Cho ngân nhĩ cùng hải sâm vào nồi, cho nước đun sôi một lúc rồi vớt ra để ráo nước. Dùng một nồi khác đổ 250ml nước và rượu, muối, bột ngọt cùng ngân nhĩ, hải sâm vào, đun sôi thì đun nhỏ lửa khoảng 1 giờ, múc ra vài bát nhỏ. Lại đổ 750ml nước vào nồi khác, cho rượu, bột ngọt, đun sôi, hớt bọt rồi múc vào bát đựng ngân nhĩ, hải sâm. Ăn trong ngày.

Chè bách hợp, mã thầy: Bách hợp 15g, mã thầy 10g, tuyết lê 1 quả, đường phèn vừa đủ. Mã thầy bóc vỏ giã nát; lê gọt vỏ, bỏ lõi, thái nhỏ. Tất cả 4 thứ cho vào nồi, đổ nước vừa đủ, đun to lửa tới sôi, chuyển đun nhỏ lửa tới khi đặc sánh là được. Uống trong ngày tùy ý.

Nước táo, cam thảo: Táo tàu 8 quả, cam thảo tươi 6g. Hai thứ rửa sạch, cho vào nồi, đổ nước 800ml, đun nhỏ lửa còn 400ml, vớt bỏ bã. Uống hằng ngày.
Xem chi tiết…

Dấu hiệu bệnh viêm thanh khí phế quản ở trẻ nhỏ

Bệnh viêm thanh khí phế quản cấp, (trong y khoa còn gọi là Croup). Đây là một bệnh lý viêm nhiễm cấp tính vùng hạ thanh môn do siêu vi trùng, làm cho bé bị thở rít, khàn tiếng hay ho khan.

be-bi-ho
Bé bị ho (ảnh minh họa)

Những trẻ bị viêm thanh khí phế quản cấp thường khởi đầu bằng những triệu chứng của cảm như ho, sổ mũi, sốt nhẹ, sau đó 1 – 3 ngày bắt đầu có triệu chứng khàn giọng, khó thở, thở rít, nhất là vào lúc thời tiết trở lạnh như giữa đêm. Lứa tuổi thường mắc phải bệnh này là dưới 5 tuổi, do đường thở hẹp nên khi viêm nhiễm gây phù nề làm cho đường dẫn khí càng trở nên chít hẹp hơn, gây nên triệu chứng khó thở.

Nhận diện viêm thanh khí phế quản cấp

Có thể nhận biết trẻ có bị viêm thanh khí phế quản cấp hay không bằng cách dựa vào các triệu chứng điển hình của bệnh như:

- Tiếng thở rít thì hít vào: bạn quan sát trẻ thở sẽ thấy mỗi lần hít vào trẻ phát ra âm thanh như tiếng rít, nghe thô ráp.

- Ho khan

- Khàn tiếng

- Khó thở, mức độ khó thở nhiều hay ít sẽ tùy thuộc vào độ nặng của bệnh.

Nhận diện các dấu hiệu nguy hiểm cần đưa trẻ đi bệnh viện ngay:

Cần đưa trẻ đến cơ sở y tế gần nhất ngay khi có một trong các dấu hiệu sau đây:

- Thở nhanh, có thể xác định bằng cách đếm nhịp thở của trẻ thấy ≥ 50 nhịp/ phút

- Khó ngủ, bứt rứt và đổ mồ hôi

- Màu môi trở nên tái nhợt

- Phần mô cơ ở 2 bên cổ hay ở giữa các xương sườn lõm xuống mỗi khi trẻ cố gắng hít thở

Một điều cần lưu ý là các triệu chứng của viêm thanh khí phế quản cấp có thể trùng lắp với một số bệnh cảnh khác như dị vật đường thở, viêm nắp thanh môn, vì vậy cũng nên đưa trẻ đến bệnh viện khi thấy có các biểu hiện: sốt cao, thở mệt, khò khè nhất là khi thở ra, khó nuốt hoặc đột ngột ho sặc sụa

Chăm sóc trẻ bị viêm thanh khí phế quản cấp tại nhà

Không phải tất cả trẻ bị viêm thanh khí phế quản cấp đều phải nhập viện điều trị. Nếu trẻ không có các dấu hiệu nguy hiểm đã nêu và tiếng thở rít chỉ xuất hiện khi khóc thì trẻ vẫn có thể điều trị ngoại trú tại nhà và tái khám theo lịch hẹn. Khi đó, cần lưu ý chăm sóc trẻ tại nhà theo hướng dẫn sau:

- Thường xuyên cho trẻ uống nước

- Nếu trẻ sốt cao hoặc đau họng, có thể cho trẻ uống thuốc hạ sốt và giảm ho

Tăng độ ẩm trong không khí có thể sẽ làm trẻ cảm thấy dễ chịu hơn. Bạn có thể đặt trẻ trong bồn tắm nước ấm hoặc dùng vòi hoa sen, và dĩ nhiên là bạn phải luôn luôn để mắt đến trẻ.

BS Như Huỳnh
Xem chi tiết…

Tìm hiểu nguyên nhân gây ho có đờm và sốt kéo dài


ho_co_dom
Ba tôi bị ho và sốt kéo dài nhiều ngày. Ho có đờm và thường  sốt về chiều ba tôi có uống kháng sinh liều cao, uống thuốc giảm sốt, đã chụp phổi bác sĩ nói bình thường , amedan hơi sưng, viêm khí -phê quản mãn tính.Bác sĩ có thể cho tôi biết nguyên nhân được không?

Trả lời: 
Ho thường do những bệnh của đường hô hấp, nhưng cũng có khi ho do bệnh ở ngoài đường hô hấp, mời bạn tham khảo các triệu chứng đi kèm với các tiệu chứng đó là các bệnh sau:

Ho do viêm họng cấp: Ho có đờm hoặc ho khan, sốt cao, có khi không sốt. Nuốt vướng, có cảm giác rát họng. Họng đỏ, có hạt hoặc có mủ. Amidan có thể sưng.

Viêm thanh quản: Ho khan. Nói khàn hoặc mất tiếng. Bệnh bạch hầu thanh quản tiếng ho ông ổng. Thể trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng. Có màng trắng ở họng, gây khó thở, nhiều khi phải mở khí quản.

Viêm khí quản, phế quản cấp: Sốt cao, giai đoạn đầu ho khan, giai đoạn sau có đờm. Đờm đặc hoặc loãng, màu trắng hoặc vàng. Điều trị sớm sẽ mau khỏi.

Viêm phế quản mạn: Thường gặp ở người hút thuốc lá (75%). Ho có nhiều đờm, mỗi năm ho khạc 3 tháng, trong vòng hai năm liền. Bệnh hay tái phát do những đợt bội nhiễm hoặc tiếp xúc với các tác nhân gây viêm như không khí lạnh, độ ẩm cao, hít phải hơi độc.

Giãn phế quản: Ho nhiều về buổi sáng, có rất nhiều đờm. Để đờm vào cốc, thấy lắng thành 3 lớp: dưới là mủ, giữa là chất nhày, lớp trên cùng là bọt lẫn dịch. Giãn phế quản có khi ho ra máu. Hay tái phát do đợt bội nhiễm.

Hen phế quản: Thường gặp ở lứa tuổi trẻ và trung niên. Người bệnh không sốt. Khó thở từng cơn, cơn hay gặp về ban đêm, trong lúc khó thở thấy tiếng rít cò cử. Sau cơn bệnh nhân ho và khạc ra nhiều đờm trắng, loãng. Hay tái phát nhiều lần do bội nhiễm, khi đó thì đờm có màu vàng.

Viêm phổi: Sốt cao, rét run, đau ngực, ho có đờm quánh, dính, màu rỉ sắt. Bạch cầu trong máu tăng cao. Chụp Xquang phổi có hình ảnh viêm phổi.

Lao phổi: Sốt hâm hấp về chiều, người gầy, sút cân, chán ăn. Ho dai dẳng, ra đờm đặc, có khi lẫn máu hoặc ho ra máu tươi. Tìm thấy vi khuẩn lao trong đờm.

Áp-xe phổi: Sốt cao, đau ngực. Ho khan hoặc có đờm. Khi ổ áp-xe vỡ thông vào phế quản thì ho ra nhiều đờm như mủ, mùi tanh hoặc rất thối.

Bệnh bụi phổi: Gặp ở người tiếp xúc với bụi ở công trường, hầm mỏ, làm đường, công nhân nhà máy dệt, may, xi-măng... Bệnh nhân ho kéo dài, ra đờm màu đen, đục. Những đợt bội nhiễm thì ho tăng hơn. Bệnh kéo dài, ảnh hưởng đến toàn thân.

Bệnh màng phổi: Viêm màng phổi có dịch, ho do màng phổi bị kích thích, ho khi thay đổi tư thế.

Ung thư phế quản: Gặp ở người già, người hút thuốc lá. Người bệnh gầy sút nhanh, ăn uống kém, đau ngực, ho ra máu. U chèn ép nhiều gây khó thở, xẹp phổi. Cần phải chụp Xquang, chụp cắt lớp vi tính lồng ngực để xác định.

Về điều trị: Việc quan trọng là phải điều trị nguyên nhân, nhưng điều trị triệu chứng ho và làm cho đờm thoát ra ngoài lại rất cần thiết. Thuốc ho có nhiều loại: thuốc có tác dụng trên trung ương (trung tâm hô hấp như: dextromethorphan, mocphin, codein) và các thuốc làm tan đờm, lỏng đờm (tecpin). Tuy nhiên các thuốc này cũng có những tác dụng phụ hoặc tai biến. Các thuốc trung ương gây ức chế trung tâm hô hấp, không nên dùng cho người già, trẻ em, người có viêm phế quản mạn tính, đặc biệt là bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính người suy hô hấp. Thuốc codein không dùng cho người táo bón và thận trọng cho người bị hen, v.v... Tùy theo từng trường hợp ho cụ thể mà các bác sĩ sẽ có quyết định.

Tóm lại, thuốc ho phải dùng với liều lượng tối thiểu, cần dùng đúng liều cho trẻ em, người cao tuổi, phải phối hợp với điều trị bệnh chính. Chú ý không được tự ý dùng một cách tùy tiện, mà phải có sự chỉ định của bác sĩ.


Chúc bạn và gia đình sức khỏe!
Xem chi tiết…

Kỹ thuật chụp cộng hưởng từ MRI trong chẩn đoán ung thư khí quản



Kỹ thuật chụp cộng hưởng từ hay còn gọi là mri là kỹ thuật hình ảnh sử dụng từ trường và sóng tần số radio để ghi hình một cách chi tiết các cấu trúc bên trong của cơ thể và cho hình ảnh chất lượng cao với độ phân giải và tương phản tốt để cho các bác sĩ có thể chẩn đoán bệnh lý một cách chính xác

MRI có thể được gọi là chụp cộng hưởng từ hạt nhân để quan sát lượng nước bên trong các cấu trúc bên tỏng của cơ thể. Ảnh cộng hưởng từ hạt nhân dựa trên một hiện tượng vật lý đó là hiện tượng cộng hưởng từ hạt nhân. Đây là một kỹ thuật chẩn đoán y khoa tạo ra hình ảnh giải phẩu của cơ thể nhờ sử dụng từ trường và sóng radio MRI đã được ứng dụng vào Việt Nam từ năm 1996 , các thế hệ máy lúc đó hoạt động rất chậm nhiều khi phải mất cả tiếng đồng hồ nhưng cho đến nay, sau nhiều cải tiến thì phương pháp MRI này đã có tốc độ cải thiện hơn rất nhiều (chụp toàn thân trong 15-30 phút).
MRI có thể sử dụng để kiểm tra gần như mọi cơ quan trong cơ thể. Kỹ thuật này đặc biệt có giá trị trong việc chụp ảnh chi tiết não hoặc dây cột sống u khí quản.....

MRI có thể đem lại những hình ảnh 3 chiều, bác sĩ có thể nắm được thông tin về địa điểm, những thương tổn, những thông tin như vậy rất có giá trước khi phẫu thuật chẳng hạn như tiểu phẫu não.

Chuẩn bị

Bệnh nhân (BN)có thể ăn uống như bình thường.

Mang theo các phim ảnh đã chụp trước kia (như Xquang, siêu âm, MRI, CT) kèm theo kết quả, giúp bác sĩ chẩn đoán hình ảnh đánh giá tình trạng của bạn.

Do trong quá trình chụp sẽ sử dụng từ trường mạnh nên tất cả các vật dụng bằng kim loại bệnh nhân đang mang (như răng giả, vòng tránh thai...) cần phải lấy ra trước khi vào phòng chụp MRI.

BN nữ được yêu cầu không trang điểm vùng mắt khi chụp MRI cho não vì có thể ảnh hưởng đến chất lượng hình ảnh.

Những trường hợp chống chỉ định

Chống chỉ định ở BN đang sử dụng máy điều hòa nhịp tim.

BN đang sử dụng cấy ốc tai không thể chụp MRI.

Những BN đang sử dụng các clip chữa phình mạch não, stent trong động mạch chủ, bơm truyền dịch và các thiết bị kích thích thần kinh... cũng không được thực hiện chụp MRI.

Chụp MRI thường không được chỉ định cho các trường hợp có thai dưới 3 tháng, trừ khi được chỉ định bởi bác sĩ giới thiệu hoặc bác sĩ chẩn đoán hình ảnh rằng chụp MRI là một thủ thuật y khoa cần thiết và lợi ích từ khảo sát này lớn hơn rủi ro. Điều này cũng có nghĩa là không có phương pháp kiểm tra nào khác có thể cho những thông tin tương tự như chụp MRI đối với trường hợp này.

Quy trình chụp MRI

• BN sẽ được cung cấp và đề nghị thay quần áo thoải mái, nằm lên bàn máy và được đưa vào khung máy. Phần cơ thể cần kiểm tra được chỉnh nằm chính giữa khoang máy. Một thiết bị, giống một cuộn dây, giúp nâng cao chất lượng hình ảnh, có thể sẽ được đặt lên trên vùng cần kiểm tra.

• Bạn sẽ biết quá trình chụp đang được thực hiện khi nghe tiếng rung. Điều quan trọng nhất là bạn cần phải nằm im tuyệt đối. Cử động sẽ làm hình ảnh cần chụp bị mờ. Thông thường, có bốn hoặc năm hình thức chụp MRI và mỗi loại mất khoảng 2-8 phút để hoàn thành. Toàn bộ quy trình thực hiện khoảng 20 phút.

Chất tương phản (Gadolinium)

Một số BN chụp MRI có thể cần phải được tiêm chất tương phản (Gadolinium ) vào tĩnh mạch, giúp nhìn thấy các thương tổn rõ hơn trên hình ảnh MRI, nâng cao độ chính xác của khảo sát và phát hiện nhiều loại bệnh nguy hiểm như ung thư. Chất tương phản này không phải là chất phóng xạ.

Hầu hết các trường hợp tiêm chất tương phản đều không có biến chứng. Tương tự như các thủ thuật y khoa khác, có những rủi ro gắn với việc đưa bất kì chất gì vào cơ thể, bao gồm cả chất tương phản. Khi chất tương phản được tiêm vào cơ thể, bạn sẽ cảm thấy mát lạnh và cảm giác thuốc đang lan tỏa trong vòng một hai phút và điều đó hoàn toàn bình thường. Một số BN có thể cảm thấy vị the lạnh trong miệng hoặc số ít BN có tác dụng phụ như buồn nôn và đau cục bộ. Rất hiếm BN bị dị ứng với chất tương phản và có thể bị phát ban, ngứa mắt hoặc một vài phản ứng khác. Nếu có triệu chứng dị ứng, hãy thông báo ngay với kỹ thuật viên. Những phản ứng rất nhỏ này chỉ xảy ra đối với 0.05% các trường hợp.

Hiện nay, đã có ghi nhận về tình trạng xơ hóa hệ thống có nguồn gốc từ thận như là một biến chứng của chụp MRI. Tuy nhiên, trường hợp này rất hiếm, nhiều khả năng xảy ra khi tiêm gadolinium liều cao cho BN bị suy thận nặng.
Đáng nói, không có cách nào để biết được ai bị dị ứng với chất tương phản cho đến khi được tiêm vào cơ thể.
Xem chi tiết…

Nội thông khí quản và những điều cần biết


Khi nào phải nội thông khí quản ?

Mở các đường hô hấp trên trong trường hợp tắc (phù, khối u, bệnh lý thanh quản) ;
bảo vệ các đường dẫn khí đối với sự hít dich dạ dày (hôn mê, ngộ độc thuốc, bệnh thần kinh-cơ) ;
vệ sinh phế quản trong trường hợp ứ tiết quan trọng (làm dễ hút khí quản) ;
làm dễ sự thông khí cơ học (hay thất bại của thông khí không xâm nhập (VNI).

Quyết định nội thông khí quản thường khó khăn, bởi vì không có tiêu chuẩn tuyệt đối.

Ta xét đồng thời những tiêu chuẩn lâm sàng : trạng thái tinh thần, mức độ ứ tiết phế quản, tình trạng huyết động, những dấu hiệu mệt (cảm giác chủ quan của bệnh nhân, khó thở khách quan, sử dụng các cơ phụ...) và những dấu hiệu khí huyết động mạch.

Trong trường hợp suy bơm (pump failure), những tiêu chuẩn là PaCO2 và pH (nhiễm toan hô hấp với nhiễm toan huyết). Nhiễm toan huyết (acidémie) là một chỉ dấu đáng tin cậy hơn tăng thán huyết (hypercapnie). Trong trường hợp suy phổi (lung failure), điều quan trọng đó là mức độ nghiêm trọng của giảm oxy-huyết (hypoxémie).

Điều rất quan trọng là đánh giá tiến triển trong thời gian của các tham số lâm sàng và khí huyết này. Quyết định nội thông khí quản sẽ sớm hơn trong trường hợp tiến triển không thuận lợi.

Vài bệnh nhân vẫn tỉnh táo và cộng tác mặc dầu một pCO2 rất cao.

Những nhu cầu của một can thiệp ngoại khoa sắp xảy ra dĩ nhiên cũng có thể ảnh hưởng quyết định.

Đặc biệt ta cố gắng tránh nội thông khí quản trong hai trường hợp :

hiện tượng tạm thời, mà sự điều chỉnh có thể nhanh (thí dụ phù phổi huyết động, sử dụng morphinique quá mức.
bệnh lý của người bị suy giảm miễn dịch, ở bệnh nhân này nguy cơ nhiễm trùng rất là quan trọng.

Ngược lại, ta đo dự ít hơn trong những trường hợp sau đây :

tiến triển lâm sàng hướng về sự thoái biến.
choáng tuần hoàn hay suy tim nặng ;
vấn để thần kinh hay ngoại thần kinh (nguy cơ thoái biến quan trọng trong trường hợp giảm oxy huyết và/hoặc tăng thán huyết) ;
ngoại trừ hạn chế vì lý đó đạo đức ;
can thiệp ngoại khoa được dự kiến trong một thời gian ngắn.

ĐƯỜNG NỘI THÔNG KHÍ QUẢN

a/ Đường miệng được ưa thích hơn :

dễ thực hiện hơn lúc cấp cứu (phải luôn luôn được ưa thích hơn lúc cấp cứu, ngoại trừ trường hợp vỡ xương mặt) ;
cho phép đưa vào một ống nội thông khí quản tương đối lớn (0,5 đến 1mm lớn hơn bằng đường mũi).

b/ Đường mũi có thể có 3 ưu điểm :

đảm bảo một sự thoải mái hơn cho bệnh nhân.
làm dễ sự duy trì vệ sinh miệng ;
đảm bảo một sự cố định ống nội thông ổn định hơn.


Nhưng đường nội thông này tạo nhiều vấn đề :

đường kính của ống nội thông nhỏ hơn
nguy cơ xuất huyết khi nội thông ;
nguy cơ viêm xoang.

Vì những lý do này đường mũi hầu như bị bỏ.

Loại và kích thước của ống nội thông

Để giảm thiểu những thương tổn do nội thông khí quản, các ống nội thông khí quản có những ballonnet thể tích lớn và áp lực thấp khi được bơm phồng với lượng khí tối thiểu.

Ở trẻ em ống nội thông khí quản không có ballonnet.

Đường kính của ống phải lớn chừng nào có thể được để tránh những yếu tố cản khí (duy trì nhưng lưu lượng khí cao, ngăn cản tắc do các dịch tiết và làm dễ sự cai thông khí cơ học).

Những kích thước của ống nội thông khí quản là :

người trưởng thành : đường kính 8, 8,5 hay 9 mm tùy theo sự vạm vỡ của bệnh nhân ;
trẻ em : đường kính bằng đường kính của ngón tay út, hay được xác định bởi công thức : tuổi/4 + 4
Xem chi tiết…

Hẹp khí quản và những điều cần biết

khi_quan
Khí quản hẹp gồm hẹp subglottic, là bị hẹp hoặc co thắt khí quản. Hầu hết các trường hợp hẹp khí quản phát triển khi mô sẹo phát triển trong khí quản của một người do đặt nội khí quản kéo dài - khi một ống thở được chèn vào khí quản để giúp duy trì hơi thở trong một thủ tục y tế - hay từ một khí quản, mà là một phẫu thuật để tạo ra một mở ở cổ để truy cập vào khí quản.

Hẹp khí quản cũng có thể phát triển từ một số nguyên nhân khác, bao gồm: chấn thương bên ngoài để cổ họng; một khối u lành tính hoặc ác tính cách nhấn vào khí quản; rối loạn tự miễn dịch nhất định (polychondritis, sarcoidosis, papillomatosis, amyloidosis, và u hạt Wegener); và nhiễm trùng. Nó cũng có thể phát triển như là một tác dụng phụ khi điều trị phóng xạ được sử dụng để điều trị một khối u trong đầu hoặc cổ.

Các triệu chứng của bệnh hẹp khí quản có thể bao gồm:

  • Khó thở hoặc khó thở
  • Ho, đôi khi có máu (được gọi là ho ra máu)
  • Thở khò khè
  • Tím, một âm thanh the thé âm nhạc mà xảy ra như hơi thở được rút ra trong, mà là do sự tắc nghẽn trong đường hô hấp
  • Nhiễm trùng đường hô hấp thường xuyên hoặc tái phát
Bởi vì chứng hẹp khí quản có thể phát triển chậm, các dấu hiệu và triệu chứng sớm có thể bị nhầm lẫn với một số bệnh khác, bao gồm cả khó khăn để điều trị bệnh hen suyễn ở người lớn.
Xem chi tiết…

Điều trị ung thư khí quản như thế nào ?

tb_ungthu
Tế bào ung thư( Ảnh minh họa)
Các bác sĩ tại  Sinai của ENT / Head và Trung tâm Ung thư cổ có kinh nghiệm trong việc lựa chọn điều trị thích hợp cho bệnh nhân có khối u ác tính và khí -phế quản.

Điều trị bao gồm phẫu thuật hoặc điều trị bronchoscopic, một mình hoặc kết hợp với xạ trị. Phương pháp điều trị khác, bao gồm cả phương pháp điều trị và phẫu thuật bronchoscopic giảm nhẹ, có thể giúp khôi phục lại hơi thở và sự tiến triển của khối u chậm ở những bệnh nhân không phải là ứng cử viên cho phẫu thuật cắt bỏ khối u.Hóa trị , thường kết hợp với xạ trị, là một lựa chọn điều trị cho những bệnh nhân có tế bào vảy lớn khối u khí quản.

Phẫu thuật

Phẫu thuật cắt bỏ khối u (cắt bỏ) là điều trị ưu tiên cho cả các khối u ác tính và lành tính giới hạn trong ít hơn một nửa của khí quản. Trong thủ tục này, bác sĩ phẫu thuật của bạn sẽ loại bỏ các khối u và một biên độ nhỏ (số tiền thêm) của mô lành xung quanh nó, sau đó kết nối các đầu của khí quản.
Phẫu thuật cắt bỏ khối u khí quản có thể phức tạp. Việc cung cấp máu đến khí quản là tinh tế và dễ dàng bị hư hỏng. Thiệt hại đối với việc cung cấp máu làm cho nó khó khăn hơn cho khí quản để chữa bệnh, làm tăng nguy cơ biến chứng. Núi Sinai Head và Phẫu thuật Trung tâm phẫu thuật cổ được huấn luyện đặc biệt trong kỹ thuật phẫu thuật để bảo tồn các nguồn cung cấp máu và giảm nguy cơ biến chứng, cải thiện cơ hội của một kết quả thành công.

Phương pháp điều trị Bronchoscopic

Bệnh nhân không phải là ứng cử viên cho giải phẫu có thể được hưởng lợi từ một số phương pháp điều trị có thể được cung cấp thông qua soi phế quản - một ống linh hoạt gắn liền với một máy ảnh nhỏ bé luồn qua miệng. Điều này thường được thực hiện kết hợp với soi phế quản cứng nhắc. Trong một số trường hợp,bronchoscopic phương pháp điều trị có thể làm giảm kích thước của khối u để nó có thể được phẫu thuật cắt bỏ.

Các phương pháp điều trị phổ biến nhất bao gồm bronchoscopic:

Mô khối u • Laser trị liệu. Đang bốc hơi với một chùm tia tập trung cao độ của ánh sáng để loại bỏ các khối u và mở các đường hàng không.

• Xịt phương pháp áp lạnh. Điều trị này liên quan đến việc áp dụng nitơ lỏng để các khối u, để vào tủ lạnh để các bác sĩ phẫu thuật có thể loại bỏ nó. Phun áp lạnh cũng có thể được sử dụng để ngăn chặn chảy máu ở những bệnh nhân ho ra máu hoặc trong quá trình loại bỏ khối u bronchoscopic.

• Phương pháp gieo. Đây là loại xạ trị sử dụng phế quản để giúp hướng dẫn bức xạ trực tiếp vào chỗ khối u, giảm thiểu thiệt hại đến các mô lân cận lành mạnh. Phương pháp gieo có thể được lựa chọn khi bệnh nhân không đủ điều kiện để xạ trị bên ngoài chùm.

• Liệu pháp quang động. Một ánh sáng mạnh sẽ kích hoạt một loại hóa chất cảm quang được áp dụng cho các khối u, phá hủy mô bất thường khi gây thiệt hại tối thiểu cho các mô xung quanh.

• Argon chùm đông máu. Tương tự như điều trị bằng laser, điều trị này sử dụng điện và khí argon trong sự kết hợp với các phương pháp điều trị khác để giết bronchoscopic mô khối u.

• Coring cứng. Thủ tục giảm nhẹ này bao gồm chèn soi phế quản cứng nhắc vào khí quản và đẩy nó qua trung tâm của khối u để mở đường thở. Coring cứng nhắc, mà thường được sử dụng kết hợp với các phương pháp điều trị bronchoscopic khác, có thể có hiệu quả cao.

Khối u ở đường dẫn khí lớn có thể được quản lý với các kỹ thuật tương tự, bao gồm cả phẫu thuật cắt bỏ, vị trí stent đường hàng không, và phương pháp điều trị bronchoscopic.

Xạ trị

Xạ trị có thể được sử dụng để:
Bệnh nhân điều trị ung thư có liên quan đến hơn 50 phần trăm của khí quản
Bệnh nhân điều trị mà khối u đã lan đến các hạch bạch huyết gần đó hoặc các khu vực khác trong ngực
Bệnh nhân điều trị, sức khỏe yếu hơn bình thường
Dùng cho bệnh nhân có u nang VA, những người có thể được điều trị bằng xạ trị đơn thuần hoặc sau khi phẫu thuật.

Bức xạ bên ngoài chùm , trong đó một chùm bức xạ được phân phối từ một nguồn bên ngoài để các trang web khối u, là loại chính của xạ trị được sử dụng để điều trị bệnh nhân có khối u khí quản. Brachyterhapy - một hình thức bản địa của xạ trị - có thể được sử dụng để điều trị bệnh nhân không phải là ứng cử viên cho xạ trị bên ngoài chùm.

Nguồn: mountsinai.org
Xem chi tiết…

Đặt canuyn khí quản

Sau khi thực hiện mở khí quản các bác sĩ thường đặt một dụng cụ được gọi là Canuyn khí quản việc lắp đặt dụng cụ này sẽ giúp cho người bệnh có thể nói và hô hấp dễ dàng hơn

 
canuyn_khi_quan
Canuyn khí quản

Sử dụng Canuyn hai nòng có cửa sổ tập nói.
Ngay sau khi mở khí quản cho người bệnh, các bác sĩ thường đặt canuyn loại 1 nòng, có bóng chèn. Canuyn mở khí quản loại này tiện dụng, chi phí thấp, lắp vào thở máy đơn giản. Hơn nữa, canuyn có bóng chèn giúp thở máy hiệu quả và ngăn đờm từ mũi họng tràn xuống phổi giây viêm phổi nặng hơn, đồng thời bóng chèn cũng có vai trò cầm máu tốt sau khi mở khí quản.

Canuyn mở khí quản loại này có nhược điểm là chỉ có một nòng nên việc vệ sinh canuyn khó khăn, thời gian lưu canuyn ngắn ,canuyn không có cửa sổ nên người bệnh khi giai đoạn ổn định không thể tập nói được.

Canuyn hai nòng có cửa sổ tập nói Shiley sẽ khắc phục được những nhược điểm trên, tuy giá thành 1 bộ canuyn cao, nhưng việc vệ sinh đơn giản, và hiệu quả trong việc tập nói nên có thể sử dụng lâu dài. Người bệnh giai đoạn ổn định, có thể ra viện nhưng vẫn phải lưu canuyn có thể dùng loại này. Sau đây là hướng dẫn sử dụng canuyn hai nòng có cửa sổ tập nói cho người bệnh dùng tại nhà

Đặt canuyn
Việc đặt canuyn, thay thế canuyn cần được thực hiện bởi bác sĩ/ điều dưỡng chuyên khoa, có kinh nghiệm. Việc thực hiện bởi những người không có kinh nghiệm có thể rất nguy hiểm khi rút canuyn cũ ra được mà không đặt lại được do tổ chức xơ hóa, dễ chảy máu, sẹo hẹp...
Hai lỗ ngang 2 bên để cố định bằng dây buộc đeo cổ thuận tiện.

Nòng trong Canuyn
Đây là canuyn hai nòng nên việc vệ sinh chỉ cần rút nòng ở trong ra và ngâm rửa trong dung dịch sát trùng. Tần suất vệ sinh canuyn phụ thuộc vào mức độ tiết đờm của người bệnh, khả năng ho khạc đờm...Việc này đơn giản, dễ dàng thực hiện được tại nhà.
Có thể tháo nòng đã dùng ra để vệ sinh và thay thế bằng nòng khác.

Nòng trong tập nói
Canuyn hai nòng có cửa sổ tập nói Shiley được thiết kế nhằm tạo thuận lợi cho sự phát âm của người bệnh.

Bản thân nòng ngoài của canuyn có cửa sổ ở bên mặt lưng. Nòng trong có 2 loại, một loại có cửa sổ và loại không có cửa sổ.

Khi muốn tập nói, chỉ cần đặt nòng trong có cửa sổ vào, nòng trong và ngoài sẽ khớp nhau tạo nên cửa sổ ở mặt lưng, đây chính là đường dẫn khí hợp với sinh lý con người. Người bệnh chỉ cần gắng sức phát âm, luồng khí từ phổi sẽ đi qua cửa sổ lên dây thanh giúp bệnh nhân nói được.

Lưu ý, khi tập nói thì người bệnh sẽ cần bịt lại đầu khí ra của canuyn, để dòng khí đi trực tiếp theo đường hợp sinh lý lên dây thanh. Thời gian đầu chỉ bịt khi tập nói, dần dần sẽ bịt lại được đầu canuyn và tự thở, tập nói theo đường sinh lý. Việc bịt đầu canuyn là an toàn vì đã có đường thông khí sinh lý đi qua cửa sổ canuyn.
Xem chi tiết…

Tổng quan về bệnh ung thư khí quản


Ung thư khí quản (cancer of the windpipe)

Đây là thông tin về một loại ung thư hiếm gặp được gọi là  ung thư khí quản
Hy vọng rằng những thông tin dưới đây sẽ giải đáp các thắc mắc và trả lời các câu hỏi của bạn

Tổng quan về khí quản 
Khí quản (windpipe) là các ống nối miệng và mũi đến phổi của bạn. Nó đi vào để phân chia thành hai đường hô hấp (phế quản phải và phế quản trái, cùng được gọi là phế quản), và cung cấp khí cho mỗi phổi.

Khí quản là ở cổ và nằm ở phía trước của thực quản (thực quản), trong đó lương thực đi xuống. Khí quản là khoảng 10-16cm (5-7in) dài và được tạo thành các vòng của khó khăn, mô sợi (sụn). Bạn có thể cảm thấy những nếu bạn chạm vào mặt trước của cổ.

ung_thu_khi_quan
Sơ đồ để thấy vị trí của khí quản

Ung thư khí quản 
Ung thư khí quản là rất hiếm và chỉ chiếm khoảng 0,1% (1 trong 1000) của tất cả các loại ung thư. Các loại phổ biến nhất của ung thư khí quản là ung thư biểu mô tế bào vảy và ung thư biểu mô nang VA. Ung thư tế bào vảy bắt đầu trong các tế bào lót các phần khác nhau của cơ thể, chẳng hạn như đường hô hấp, miệng và cổ họng. Ung thư nang VA là hiếm và phát triển từ mô tuyến. Họ có thể phát triển ở các bộ phận khác nhau của cơ thể nhưng phổ biến hơn ở các khu vực đầu và cổ.

Nguyên nhân của ung thư khí quản
Chúng tôi không biết chính xác những gì gây ra ung thư khí quản. Đối với hầu hết mọi người là nguyên nhân chưa được biết rõ.

Tuy nhiên, hút thuốc được liên kết với ung thư tế bào vảy của khí quản. Đây là loại ung thư khí quản cũng phổ biến hơn ở nam giới trên 60 tuổi.

Không có bất kỳ bằng chứng liên quan ung thư biểu mô nang VA của khí quản do hút thuốc.Cũng giống như nhiều bệnh ung thư, nguyên nhân chưa được biết rõ. Tuy nhiên, có vẻ như ảnh hưởng đến những người đàn ông và phụ nữ bình đẳng và phổ biến hơn trong độ tuổi từ 40 và 60.
Các dấu hiệu và triệu chứng của ung thư khí quản

Các triệu chứng phổ biến nhất của ung thư khí quản là:
    Ho khan
    Khó thở
    Giọng nói khàn khàn
    Khó khăn trong việc nuốt
    Sốt, ớn lạnh và nhiễm trùng ngực mà giữ lại đến
    Ho ra máu
    Thở khò khè hoặc thở ồn ào.

    Những triệu chứng này thường xảy ra trong các điều kiện khác không phải ung thư. Tuy nhiên, điều quan trọng là để nói cho bác sĩ của bạn nếu bạn có bất cứ triệu chứng.

    Làm thế nào để chẩn đoán ung thư khí quản 
    Bác sĩ của bạn sẽ kiểm tra  vàsắp xếp cho các thử nghiệm cần thiết để chẩn đoán. Bạn sẽ được chuyển đến một bệnh viện chuyên khoa cho những thử nghiệm và để được tư vấn và điều trị chuyên môn.

    Các bác sĩ tại bệnh viện sẽ kiểm tra bạn, hãy hỏi bạn về tiền sử bệnh của bạn và lấy mẫu máu để kiểm tra sức khỏe tổng thể.

    Ung thư khí quản là hiếm gặp và khó chẩn đoán. Bệnh có thể bị nhầm lẫn với bệnh hen suyễn hoặc viêm phế quản, mà đôi khi dẫn đến sự chậm trễ trong chẩn đoán.

    Bạn có thể có một số các xét nghiệm sau đây để giúp chẩn đoán ung thư của bạn và tìm ra hay không ung thư đã lan rộng.

    • X-quang
    Các bác sĩ có thể mất một số x-quang để bắt đầu với, mặc dù bệnh ung thư khí quản có thể không luôn luôn hiển thị trên một x-ray.
    CT (chụp cắt lớp vi tính scan)

    Một CT scan có một loạt các x-quang mà xây dựng lên một hình ảnh ba chiều của các bên trong cơ thể. Việc quét là không đau và mất 10-30 phút. CT scan sử dụng một lượng nhỏ phóng xạ, đó là rất khó để làm hại bạn và sẽ không làm hại bất cứ ai bạn tiếp xúc với. Bạn sẽ được yêu cầu không ăn hoặc uống ít nhất bốn giờ trước khi chụp.

    Bạn có thể nhận được một thức uống hoặc tiêm một loại thuốc nhuộm, trong đó cho phép các khu vực đặc biệt trong cơ thể để được nhìn thấy rõ ràng hơn về quá trình quét. Đối với một vài phút, điều này có thể làm cho bạn cảm thấy nóng hơn cả. Nếu bạn dị ứng với iod hoặc có bệnh hen suyễn, bạn có thể có một phản ứng nghiêm trọng hơn để tiêm, vì vậy điều quan trọng là để cho bác sĩ của bạn biết trước.

    • MRI (chụp cộng hưởng từ) quét

    Thử nghiệm này là tương tự như một CT scan nhưng sử dụng từ tính thay vì x-quang để xây dựng lên một bức tranh chi tiết các khu vực của cơ thể của bạn. Trước khi quét, bạn có thể được yêu cầu để hoàn thành và ký một danh sách kiểm tra. Điều này là để đảm bảo rằng nó an toàn cho bạn để có một quét MRI.

    Trước khi quét, bạn sẽ được yêu cầu để loại bỏ bất kỳ đồ dùng kim loại bao gồm đồ trang sức. Một số người được tiêm thuốc nhuộm vào một tĩnh mạch ở cánh tay. Điều này được gọi là một phương tiện tương phản và có thể giúp các hình ảnh từ máy quét để hiển thị rõ ràng hơn. Trong các thử nghiệm, bạn sẽ được yêu cầu nằm im trên một chiếc ghế dài bên trong một hình trụ dài (tube) trong khoảng 30 phút. Nó là không đau nhưng có thể hơi khó chịu, và một số người cảm thấy một chút sợ phòng kín trong quá trình quét. Nó cũng ồn ào, nhưng bạn sẽ nhận được các nút tai hoặc tai nghe.

    • Nội soi phế quản

    Một ống mỏng, dẻo được truyền miệng hoặc mũi của bạn để kiểm tra khí quản. Bạn sẽ được yêu cầu không ăn hay uống bất cứ thứ gì trong một vài giờ trước khi nó. Chỉ cần trước khi thử nghiệm có thể được cho thuốc an thần nhẹ để giúp bạn thư giãn và để làm giảm cảm giác khó chịu.

    Một khi bạn cảm thấy thoải mái, gây tê cục bộ sẽ được phun vào mặt sau của cổ họng của bạn, làm cho nó tê liệt.

    Các phế quản sau đó nhẹ nhàng thông qua vào mũi hay miệng của bạn và xuống vào khí quản. Các bác sĩ có thể xem xét thông qua soi phế quản để kiểm tra xem có bất kỳ bất thường. Hình ảnh và sinh thiết có thể được thực hiện cùng một lúc.

    Xét nghiệm này có thể hơi khó chịu nhưng chỉ mất một vài phút. Bạn không nên ăn hoặc uống ít nhất một giờ sau đó, vì cổ họng của bạn sẽ bị tê liệt.

    Ngay sau khi các thuốc an thần đã mòn đi, bạn sẽ có thể về nhà. Bạn không nên lái xe trong vòng 24 giờ sau khi thử nghiệm và nên sắp xếp cho một người nào đó để thu thập các bạn từ bệnh viện nếu có thể, bạn có thể cảm thấy buồn ngủ. Bạn có thể bị đau cổ họng trong một vài ngày sau khi thử nghiệm của bạn, nhưng điều này sẽ sớm biến mất.

    • Soi phế quản trực tiếp

    Soi phế quản trực tiếp đôi khi được sử dụng để giúp bác sĩ đưa ra kế hoạch hoặc điều trị. Nó có thể giúp họ nhìn thấy các khối u rõ hơn và giữ cho khí quản ổn định trong suốt quá trình. Bạn sẽ có một chất gây mê tổng quát và bạn có thể phải ở lại bệnh viện qua đêm.

    Các kết quả của các xét nghiệm này sẽ giúp các chuyên gia quyết định vào loại điều trị tốt nhất cho bạn.

    Phân loại ung thư khí quản

    Các giai đoạn của ung thư là một thuật ngữ dùng để mô tả kích thước của nó và có hay không nó đã lan rộng ra khỏi vị trí ban đầu của nó. Biết loại đặc biệt và giai đoạn của ung thư sẽ giúp các bác sĩ quyết định điều trị thích hợp nhất cho bạn.

    Giai đoạn TNM (viết tắt của các từ khối u/hạch/di căn  - tumor/nodes/metastasis)

    Hệ thống giai đoạn thường được sử dụng nhất cho ung thư được gọi là hệ thống TNM:
    T đề cập đến kích thước hoặc vị trí của t umour chính (nơi ung thư đầu tiên bắt đầu trong cơ thể).
    N đề cập tới mà các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng, nếu có
    M đề cập đến hay không ung thư đã lan đến các bộ phận khác của cơ thể (metastases).

    Các T, N và M thường sẽ có số gắn liền với mô tả chi tiết. Ví dụ, một khối u T1 có thể rất nhỏ và chỉ trong một lớp mô, trong khi một khối u T4 có thể lớn hơn và lây lan qua một số lớp mô.

    Các chi tiết chính xác của T, N và M sẽ phụ thuộc vào loại ung thư.
    Hệ thống dàn số

    Ngoài giai đoạn TNM, có thể bạn sẽ nghe các bác sĩ sử dụng một hệ thống số dàn dựng.Thường có ba hay bốn giai đoạn số đối với từng loại ung thư.

    Giai đoạn 1 mô tả một bệnh ung thư ở giai đoạn sớm khi nó thường có kích thước nhỏ và chưa lan rộng, trong khi giai đoạn 4 mô tả bệnh ung thư ở giai đoạn nặng hơn khi nó đã thường lây lan đến các bộ phận khác của cơ thể. Giai đoạn 2 và 3 đang ở giữa các giai đoạn.

    Các giai đoạn số được tạo thành từ sự kết hợp khác nhau của các giai đoạn TNM. Vì vậy, một bệnh ung thư giai đoạn 1 có thể được mô tả như là một trong hai T1, N0, M0 hoặc T2, N0, M0.

    Giai đoạn số lượng cũng có thể được chia nhỏ để cung cấp thông tin chi tiết hơn về kích thước khối u và lan rộng. Ví dụ, một bệnh ung thư giai đoạn 3 có thể được chia thành giai đoạn 3a, 3b giai đoạn và giai đoạn 3c. Một bệnh ung thư giai đoạn 3b có thể khác nhau từ một bệnh ung thư giai đoạn 3a trong hoặc kích thước khối u hoặc ung thư đã lan đến các hạch bạch huyết.

    Phân loại đề cập đến sự xuất hiện của các tế bào ung thư dưới kính hiển vi và đưa ra một ý tưởng về cách ung thư có thể  xử lý

    Cấp thấp có nghĩa là các tế bào ung thư trông tương tự như các tế bào bình thường. Cao cấp có nghĩa là các tế bào trông bình thường hơn. Một khối u cấp thấp thường sẽ tăng trưởng chậm hơn và ít có khả năng lây lan hơn một khối u cao cấp.

    Điều trị ung thư khí quản
    Điều trị của bạn sẽ phụ thuộc vào một số yếu tố, bao gồm cả sức khỏe của bạn nói chung, vị trí và kích thước của các bệnh ung thư và liệu nó đã lan rộng bất cứ nơi nào khác trong cơ thể. Các phương pháp điều trị chính cho ung thư khí quản là phẫu thuật và xạ trị. Họ có thể đưa ra một mình hoặc kết hợp.

    Hóa trị thường được đưa ra để làm giảm triệu chứng. Điều này được gọi là hóa trị giảm nhẹ. Điều trị của bạn thường sẽ được thực hiện tại một trung tâm điều trị ung thư chuyên gia. Nếu bạn đang gặp phải phẫu thuật, bạn sẽ được vận hành bởi một bác sĩ phẫu thuật chuyên khoa phẫu thuật phổi và ngực.

    Phẫu thuật
    Đầu năm, ung thư nhỏ một hoạt động có thể loại bỏ hoàn toàn khối u. Đây là chuyên ngành phẫu thuật và chỉ được thực hiện tại các trung tâm chuyên khoa. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp quá nhiều về độ dài của khí quản bị ảnh hưởng để loại bỏ khối u và tái tham gia các đầu cắt của khí quản.

    Cũng như loại bỏ các bệnh ung thư, các bác sĩ phẫu thuật cũng thường loại bỏ một số tìm kiếm các mô lành xung quanh nó (được biết đến như là một lợi rõ ràng). Mô này được nhìn trong phòng thí nghiệm để xem nếu có bất kỳ tế bào ung thư có. Nếu nó có chứa các tế bào ung thư, điều này có nghĩa là có hoạt động khác để loại bỏ mô hơn.

    Sau khi hoạt động của bạn, bạn có thể được chăm sóc tại một đơn vị phụ thuộc cao hoặc chăm sóc đặc biệt cho một vài ngày. Bạn sẽ có một vết thương ở cổ mà cách cắt (rạch) đã được thực hiện và một ống thoát nước để loại bỏ bất kỳ chất lỏng dư thừa trong máu hoặc trong khu vực. Cho đến khi bạn có thể uống đúng cách, bạn sẽ có được thông qua một chất lỏng nhỏ giọt (truyền). Bạn sẽ phải thường xuyên uống thuốc giảm đau để đảm bảo rằng bất kỳ sự khó chịu hoặc đau đang được kiểm soát. Các y tá sẽ giúp bạn có được và về ngay sau khi quý vị có đủ. Điều này sẽ giúp giữ cho chuyển động tuần hoàn của bạn và ngăn ngừa các biến chứng như các cục máu đông.

    Sau khi phẫu thuật, khí quản của bạn sẽ hơi ngắn hơn, do đó bạn sẽ được khuyến khích không phải căng đầu ra sau một thời gian sau khi hoạt động của bạn. Sau khi phẫu thuật, bạn sẽ được nhìn thấy thường xuyên bởi một vật lý trị liệu, những người sẽ giúp bạn tập thở và ho ra đờm bất kỳ (đờm). Bạn có thể ho ra một số đờm vấy máu cho một vài ngày sau khi hoạt động.

    Xạ trị có thể được đưa ra sau khi phẫu thuật để cố gắng làm giảm nguy cơ ung thư tái phát trở lại. Nó cũng có thể được thực hiện nếu có bất kỳ tế bào ung thư còn sót lại sau các hoạt động.

    Xạ trị

    Xạ trị sử dụng năng lượng cao x-quang để tiêu diệt các tế bào ung thư, trong khi có rất ít tác hại nhất có thể để các tế bào bình thường.

    Nó có thể được sử dụng riêng của mình để chữa trị những người bị sớm, ung thư cấp thấp của khí quản người không thể có phẫu thuật. Xạ trị cũng được đưa ra sau khi phẫu thuật để giảm nguy cơ ung thư tái phát trở lại (tá dược xạ trị) hoặc để làm giảm triệu chứng (xạ trị giảm đau).

    Xạ trị thường được đưa ra bởi các mục tiêu năng lượng cao x-quang ở khí quản từ một máy xạ trị. Điều này được gọi là tia xạ trị bên ngoài. Bạn thường phải điều trị thứ hai-thứ sáu, với một phần còn lại vào cuối tuần. Việc điều trị có thể được trao cho 3-7 tuần. Chiều dài của thời gian nó đưa ra cho phụ thuộc vào loại ung thư mà bạn có và kích thước của nó. Xạ trị để kiểm soát các triệu chứng (gọi là xạ trị giảm đau) thường được đưa ra trong một khoảng thời gian ngắn.

    • Tác dụng phụ của xạ trị
    Vấn đề trong việc nuốt
    Sau 2-3 tuần điều trị, vấn đề chính bạn đang có khả năng để thông báo là  khó nuốt Điều này xảy ra bởi vì xạ trị có thể gây ra tình trạng viêm ở cổ họng của bạn (thực quản). Bạn cũng có thể bị ợ nóng và khó tiêu

    Hãy cho bác sĩ của bạn nếu bạn có bất cứ phản ứng phụ, vì chúng có thể cung cấp cho bạn các loại thuốc để giúp đỡ. Nếu bạn không cảm thấy thích ăn hoặc có vấn đề với việc nuốt, bạn có thể thay thế bữa ăn với, thức uống giàu năng lượng bổ dưỡng. Đây là có sẵn từ các nhà hóa học nhất và một số có thể được quy định bởi bác sĩ.

    Mệt mỏi
    Xạ trị có thể làm cho bạn cảm thấy rất  mệt mỏi Hãy thử để có được càng nhiều phần còn lại như bạn có thể, đặc biệt là nếu bạn phải đi một chặng đường dài để điều trị.

    Thay đổi da
    Một số người phát triển một phản ứng tương tự như da bị cháy nắng. Da nhợt nhạt có thể bị đỏ và đau hoặc ngứa. Da sẫm màu có thể phát triển một chút màu xanh hoặc đen. Bạn sẽ được tư vấn về cách chăm sóc làn da của bạn.

    Rụng tóc
    Tóc bạn sẽ rụng trong quá trình xạ trị, nhưng nó thường mọc trở lại một lần nữa sau khi điều trị.

    Cảm giác ốm (buồn nôn)
    Bác sĩ có thể kê toa thuốc chống, mà qua đos sẽ giúp giảm cảm giác buồn nôn

    Hầu hết các tác dụng phụ sẽ biến mất dần dần một lần điều trị của bạn là hơn, nhưng điều quan trọng là để cho bác sĩ của bạn nếu họ tiếp tục.

    Hóa trị

    Hóa trị là việc sử dụng các thuốc chống ung thư (gây độc tế bào) để tiêu diệt các tế bào ung thư. Họ làm việc bằng cách phá vỡ sự phát triển của tế bào ung thư. Hóa trị thường được sử dụng để giúp kiểm soát bệnh ung thư hoặc các triệu chứng của nó (hóa trị giảm nhẹ).Thuốc hóa trị liệu có thể được sử dụng là cisplatin hoặc carboplatin

    Hóa trị là rất hiếm khi được sử dụng cho các bệnh ung thư nang VA của khí quản.

    Kiểm soát các triệu chứng
    Các phương pháp điều trị sau đây có thể được sử dụng để làm giảm triệu chứng nếu khối u đang chặn đường thở của bạn và làm cho nó khó khăn cho bạn để thở. Một số người có thể có một sự kết hợp của các phương pháp điều trị. Chuyên khoa sẽ tư vấn cho bạn mà phương pháp điều trị thích hợp cho bạn.

    Xạ trị (brachytherapy)

    Xạ trị ( brachytherapy) có thể được sử dụng để mở thông đường thở và giảm các triệu chứng của bạn.

    Một ống mỏng được đặt bên trong khí quản của bạn bằng cách sử dụng phế quản. Một nguồn phóng xạ sau đó được đặt bên trong ống này gần khối u. Nó lại tại chỗ cho một vài phút để cho việc điều trị và sau đó được loại bỏ. Việc điều trị không đau đớn. Bạn thường chỉ cần một phiên điều trị nhưng nó có thể được lặp đi lặp lại nếu cần thiết.

    Có thường không nhiều tác dụng phụ từ loại điều trị này. Bạn có thể tìm thấy bạn có bị ho và sản xuất ra nhiều đờm (đờm) trong một thời gian.

    Laser điều trị

    Laser điều trị làm giảm các triệu chứng bằng cách đốt khối u với một ánh sáng laser. Nó được thực hiện dưới gây mê toàn thân. Một nội soi phế quản | được thực hiện trong khi bạn đang ngủ, và một sợi linh hoạt được đưa qua soi phế quản để nhằm mục đích chùm tia laser vào khối u. Các chùm tia là nhằm vào các khối u và tiêu diệt càng nhiều càng tốt.Không có bất kỳ tác dụng phụ thường và bạn có thể về nhà vào ngày hôm sau hoặc buổi tối cùng ngày.

    Điều trị này có thể được lặp đi lặp lại, nếu cần thiết. Đôi khi xạ trị được đưa ra cũng như để cố gắng làm cho những lợi ích của việc điều trị kéo dài.

    Phương pháp áp lạnh
    Phương pháp áp lạnh sử dụng nitơ lỏng, mà là cực kỳ lạnh, đóng băng và phá hủy các tế bào ung thư. Nó được thực hiện dưới gây mê toàn thân. Sử dụng phế quản, các bác sĩ đặt một dụng cụ gọi là cryoprobe gần khối u. Nitơ lỏng sau đó được lưu thông qua thăm dò để tiêu diệt các phần của khối u. Các bác sĩ di chuyển đầu dò xung quanh cho đến khi đủ của các khối u đã được loại bỏ để cải thiện các triệu chứng của bạn.

    Không có nhiều tác dụng phụ thường với phương pháp áp lạnh. Bạn có thể tìm thấy bạn ho ra đờm nhiều hơn cho một vài ngày sau khi điều trị.
    Phép thấu nhiệt liệu

    Điện nhiệt cũng được biết đến như đốt điện. Điều này được thực hiện thông qua soi phế quản. Các bác sĩ sử dụng một đầu dò được làm nóng bởi một dòng điện để tiêu diệt các tế bào ung thư và giảm các triệu chứng. Có thường không nhiều tác dụng phụ khi điều trị này.

    Liệu pháp quang động (PDT)
    Liệu pháp quang động (PDT) sử dụng laser, hoặc các nguồn ánh sáng khác, kết hợp với một loại thuốc nhạy cảm ánh sáng để tiêu diệt các tế bào ung thư. Các loại thuốc nhạy cảm ánh sáng được cho là một chất lỏng vào tĩnh mạch. Sau khi chờ đợi cho thuốc được đưa lên bởi các tế bào ung thư, ánh sáng laser được hướng vào các khối u bằng soi phế quản.Điều này bắt đầu thuốc để tiêu diệt các tế bào ung thư.

    PDT sẽ làm cho bạn tạm nhạy cảm với ánh sáng và bạn sẽ cần phải tránh ánh sáng cho giữa một vài tuần và vài tháng, tùy thuộc vào loại thuốc photosensitising được sử dụng.Chuyên gia sẽ cho bao lâu bạn nên tránh ánh sáng cho. Tác dụng phụ khác bao gồm sưng, viêm, khó thở và ho.

    PDT là một điều trị tương đối mới và chỉ có sẵn ở một số trung tâm. Nó không thích hợp cho tất cả mọi người. Bác sĩ của bạn có thể cung cấp cho bạn thêm thông tin về điều này.

    Sử dụng ống thở

    Đôi khi đường thở có thể bị thu hẹp . Điều này đôi khi có thể được giảm thiểu bằng cách sử dụng một thiết bị nhỏ gọi là stent, được đặt bên trong đường thở. Các stent thường được sử dụng nhất là một khung dây nhỏ. Nó được đưa vào phế quản ở một vị trí chính xác lại và khi nó đi ra khỏi phế quản nó mở ra, giống như một chiếc ô.

    Stent đường thở thường được đặt ở dưới gây mê toàn thân. Khi bạn thức dậy, bạn thường sẽ không cảm thấy nó và bạn sẽ có thể thở dễ dàng hơn. Các stent có thể ở trong khí quản của bạn vĩnh viễn. Tác dụng phụ của một stent đường hô hấp có thể có nhiễm trùng, tắc nghẽn với chất nhờn và kích ứng đường hô hấp. Điều này có thể gây ho và khó thở.

    Theo dõi sau khi điều trị ung thư khí quản

    Bạn sẽ phải thường xuyên kiểm tra sức khỏe một lần điều trị của bạn đã hoàn thành.Những thường sẽ tiếp tục trong nhiều năm, thường xuyên hơn trước và sau đó ít thường xuyên hơn. Nếu bạn có bất kỳ vấn đề hoặc nhận thấy bất kỳ triệu chứng giữa thăm, hãy cho bác sĩ biết.

    Ổn định tâm lý
    Bạn có thể có nhiều khác nhau cảm xúc bao gồm cả sự tức giận, oán giận, cảm giác tội lỗi, lo âu và sợ hãi. Đây là tất cả những phản ứng bình thường, và là một phần của quá trình nhiều người đã trải qua

    Mọi người đều có cách riêng của họ để đối phó với những tình huống khó khăn này. Một số người sẽ nói chuyện với gia đình hoặc bạn bè, trong khi những người khác thích để tìm kiếm sự giúp đỡ từ những người bên ngoài tình trạng của họ.

    Tài liệu tham khảo

    Macchiarini P. Primary tracheal tumours. Lancet Oncology. 2006. 7: 83-91.
    Myers, et al. Cancer of the head and neck. 4th edition. 2003. WB Saunders.
    UpToDate. www.uptodate.com (accessed September 2012).
    Webb, et al. Primary Tracheal malignant neoplasms. Journal of the American College of Surgeons. 2006. 202 (2): 237-246.
    http://www.macmillan.org.uk/
    Xem chi tiết…

    Để hạt quất rơi vào khí quản con sống thực vật

    Khi thấy bé Nguyễn Trọng T (15 tháng tuổi ) lên cơn co giật, mẹ của bé vội vàng lấy quất vắt vào miệng, không may hạt quất rơi vào khí quản khiến bé bị ngộp thở và gần như phải sống thực vật với những di chứng não và tình trạng nhiễm trùng rất nặng

    Chanh và quất không có tác dụng chống do giật
    Cháu Nguyễn Trọng T (huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) được đưa vào cấp cứu tại bệnh viện Nhi đồng 1 TPHCM trong tình trạng hôn mê, suy hô hấp nặng, da tím tái. Các bác sĩ bệnh viện Nhi đồng 1 đã gắp ra một hạt tắc rơi vào phế quản phải – nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy hô hấp và di chứng não khiến cháu phải sống đời sống thực vật.

    Qua lời kể của người thân trong gia đình, các bác sĩ được biết khi bé bị co giật, mẹ của bé đã nặn trực tiếp quả quất vào miệng bé để chống co giật. Không may, hạt quất rơi vào khí quản khiến bé bị suy hô hấp, phải đưa vào một phòng khám đa khoa gần nhà để cấp cứu. Dù đã được đặt nội khí quản nhưng do tình trạng quá nặng nên phòng khám đã chuyển bé đến bệnh viện Nhi đồng 1 để điều trị. Các bác sĩ Nhi đồng 1 đã gắp được hạt tắc ra khỏi khí quản phải nhưng do não thiếu oxy quá lâu nên đã dẫn đến tình trạng cháu bé bị di chứng não, phải sống đời sống thực vật. Đồng thời, cháu T cũng đang rơi vào tình trạng nhiễm trùng phổi do dị vật gây nên.

    Ths.Bs Trần Ngọc Hạnh Đan, khoa Nhiễm – Thần kinh, bệnh viện Nhi đồng 1 cho rằng, theo quan niệm dân gian, một số phụ huynh khi thấy con lên cơn co giật thường nặn chanh hoặc quất vào miệng trẻ. Thế nhưng việc nặn trái quất hay chanh vào miệng em bé không những không có tác dụng khi trẻ bị co giật mà ngược lại còn vô cùng nguy hiểm. Vì trong cơn co giật, trẻ không có phản xạ ho sặc sụa để đẩy dị vật ra khỏi đường thở. Trong cơn co giật thì phản xạ này sẽ giảm hoặc mất đi nên dị vật rơi vào đường thở rất dễ dàng.

    Theo bác sĩ Hạnh Đan, khi trẻ lên cơn co giật tại nhà. Đầu tiên, các phụ huynh nên cho trẻ nằm trên mặt bằng theo tư thế nghiêng 1 bên, quay mặt trẻ ra ngoài để có thể quan sát được biểu hiện của trẻ. Ở tư thế này, đàm nhớt trong miệng trẻ dễ dàng chảy ra ngoài, có thể lấy khăn lau sạch cho trẻ, tránh trào ngược vào đường thở. Tiếp theo, cha mẹ có thể lấy một cây đè lưỡi bằng gỗ hoặc nhựa để đặt vào giữa hai hàm răng của trẻ. Sau đó, trẻ nên được đưa đến cơ sở y tế khám chữa bệnh gần nhất để sơ cấp cứu. Tuyệt đối không vắt chanh, quất vào miệng trẻ vì những chất này hoàn toàn không có tác dụng chống co giật.

    Theo Lao động
    Xem chi tiết…

    Lưu ý với bệnh chấn thương khí quản

    khi_quan
    Khí quản
    Những bệnh liên quan đến chấn thương khí quản xảy ra do cơ thể bị thiếu oxi và kèm theo tràn khí, tràn máu trong lồng ngực, và có thể gây ra các tai biến nghiêm trọng

    Nguyên nhân

    Vùng cổ: thường gặp trong chấn thương hở vùng cổ nhưng cũng có thể gặp trong chấn thương kín do bị đập, xiết cổ quá mạnh.

    Vùng ngực: ngoài chấn thương hở, còn gặp chấn thương do xương ức ép mạnh vào cột sống hoặc do cú dội ngược.

    Triệu chứng

    Lâm sàng

    Tràn khí là dấu hiệu cần được phát hiện ngay khi có chấn thương. Tràn khí có thể rõ, lan tỏa nhanh nhưng cũng có thể ít, kín đáo, có khi chỉ xuất hiện khi gây mê bóp bóng.

    Tràn khí có thể dưới da, sờ thấy lép bép, nếu rõ gây biến dạng vùng cổ, cằm, mặt, ngực.

    Tràn khí màng phổi trong rách khí quản ngực có thể chỉ thấy bóng khí ở trung thất, quanh tim, đỉnh phổi và có thể làm xẹp một phần hoặc cả một thuỳ phổi.

    Khó thở: có khó thở cả 2 thì, rõ hơn ở thì thở ra nếu chấn thương vùng ngực hoặc thì thở vào nếu có kèm theo chấn thương thanh quản. Khó thở có thể ở mức độ nhẹ đến trung bình hay nặng và ngày càng tăng dần.

    Ho: đau tăng khi ho, ho thành cơn, có thể ho sặc, khó thở tím tái rõ rệt.

    X - quang: cho thấy được hình ảnh tràn khí vùng cổ hay ngực, mức độ tràn khí, nhưng thường khó xác định được vùng chấn thương. C.T.Scan có thể cho thấy được hình ảnh tổn thương đầy đủ hơn.

    Nội soi: là cần thiết để xác định được vị trí và tính chất tổn thương nhưng cần hết sức thận trọng vì có thể làm chấn thương nặng thêm và gây khó thở nặng.

    Xử trí

    Cấp cứu

    Khi có thủng, rách, vỡ sụn khí quản hoặc khi có tình trạng khó thở, đe dọa chảy máu vào đường thở, có tràn khí rõ.

    Cần phải:

    Mở khí quản cấp cứu, nếu cho phép nên mở khí quản thấp, xa vết thương để duy trì sự thông thoáng của ống thở.

    Chống sốc, chống chảy máu.

    Nội khoa

    Nằm đầu cao, hạn chế thay đổi tư thế đầu.

    Corticoid sớm để giảm phù nề, tranh sẹo dính.

    Kháng sinh.

    Giảm xuất tiết đường hô hấp để phòng tránh viêm đường hô hấp dưới.

    Tiêm SAT (chống uốn ván).

    Ngoại khoa

    Tuỳ theo tình trạng vết thương, đảm bảo nguyên tắc:

    Khâu kín vết thủng hoặc rách vỡ.

    Tiết kiệm trong cắt bỏ các phần bị rách, vỡ.

    Khâu từng lớp theo đúng vị trí giải phẫu và nút buộc luôn ở mặt ngoài.

    Lấp cố định bằng cân , cơ, niêm mạc và nếu thiếu có thể di chuyên lấy từ nơi khác tới.

    Đặt ống nong đỡ với các loại ống Aboulker hay Montgomery và để lâu dài.

    Nếu đứt rời hay dập nát vòng sụn thì cắt bỏ và thực hiện khâu nối khí quản tận-tận.

    Cố định cử động cổ ít nhất 1 tuần.

    Theo dõi

    Sau khi rút ống thở cần theo dõi định kỳ trong vài tháng tiếp theo để phát hiện sớm các hiện tượng sùi, sẹo, chít hẹp.

    Nguồn điều trị
    Xem chi tiết…

    Ung Thư Hạch Bạch Huyết (Lymphoma)

    Những bệnh ung thư bắt đầu từ hệ thống hạch bạch huyết được gọi là các u lympho. Có hai loại chính là: u lympho Hodgkin và u lympho không Hodgkin. Mặc dù đó là hai loại u lympho, vẫn có sự khác nhau giữa chúng, vì thế việc điều trị cũng khác nhau


    I- U LYMPHO HODGKIN (HODGKIN LYMPHOMA)

    Bệnh u lympho Hodgkin được bác sĩ Thomas Hodgkin mô tả lần đầu tiên năm 1832
    Bệnh Hodgkin là một trong các loại lymphoma (ung thư hạch bạch huyết), là ung thư có nguồn gốc từ hệ bạch huyết.
    Ung thư hạch bạch huyết gồm hai loại chính: Hodgkin và Không-Hodgkin.
    Hệ thống bạch huyết là một phần trong hệ thống miễn dịch của cơ thể. Hệ thống miễn dịch này có nhiệm vụ chống lại các bệnh lý nhiễm trùng cùng các loại bệnh lý khác.
    Hệ bạch huyết có 2 thành phần chính:
    - Mạng lưới các mạch bạch huyết.
    - Các hạch bạch huyết: có kích thước từ vài mm đến hơn 1 cm, thường xếp thành nhóm. Hạch bạch huyết là nơi khống chế và loại trừ những vi sinh vật cùng các chất nguy hại cho cơ thể.

    Hệ bạch huyết còn là mạng lưới gồm nhiều mạch bạch huyết, phân nhánh tương tự mạch máu, đi vào các mô ở khắp cơ thể.


    H1-Hệ bạch huyết

    Mạch bạch huyết dẫn bạch huyết, một chất lỏng không màu sắc, chứa những tế bào lympho, hiện diện khắp cơ thể. Trong mạng lưới này, có những bộ phận nhỏ gọi là hạch bạch huyết. Các hạch bạch huyết là các hạt nhỏ nằm khắp cơ thể. Mỗi hạch có kích thước từ đầu đinh ghim đến bằng hạt đậu, thường xếp thành nhóm hay chuỗi hạch. Từng nhóm hạch bạch huyết nằm trong nách, hai bên bẹn, cổ, ngực, và ổ bụng.


    H2- Hạch bạch huyết vùng đầu cổ

    Ngoài các hạch bạch huyết, lá lách, tuyến hung (thymus), amidan và tủy xương là những thành phần khác của hệ bạch huyết. Dạ dày, hỗng tràng và da cũng có những tế bào và mô bạch huyết.


    H3- Lymphom Hodgkin trong lách

    Tế bào lymphô nằm trong hạch bạch huyết, nếu sự phát triển bị rối loạn và trở thành ung thư, thì gọi là ung thư nguyên phát tại hạch. Phân biệt với hạch do ung thư di căn.
    Các tế bào lymphô ác tính không chỉ hiện diện ở các hạch bạch huyết mà còn ở những nơi khác.


    H4- Tế bào Reed-Sternberg

    Hạch thường xuất hiện đầu tiên ở hố thượng đòn bên trái (gấp 6 lần nhiều hơn bên phải), kích thước có thể nhỏ như hạt táo nhưng cũng có thể to bằng quả cam. Lúc đầu các hạch mọc riêng rẽ nên dễ nắn, giới hạn rõ rệt. Về sau các hạch có thể dính vào thành từng đám. Hạch ít khi bị loét gây nên lỗ rò ngoài da. Hạch thường không đau và khá chắc.
    Bệnh thường gặp ở người lớn, tiến triển thành từng đợt. Mỗi đợt người bệnh thường bị sốt, ngứa và có số lượng hạch tăng nhiều hơn. Xét nghiệm máu có thể thấy tăng bạch cầu ái toan.


    H5- Lymphoma Hodgkin vùng cổ

    Cần chú ý tìm hạch ở nội tạng như trung thất , mạc treo. Trường hợp bệnh khởi đầu bằng các hạch to ở trung thất thì rất khó chẩn đoán, vì có khi cần phải chờ đến những đợt tiến triển kế tiếp để hạch xuất hiện ở ngoại vi.
    Chẩn đoán xác định bằng sinh thiết hạch, thấy có hình thái đa dạng tế bào và nhất là tìm thấy tế bào Sternberg.


    H6- Tế bào Reed-Sternberg

    U lymphô (lymphôm) gồm 2 dạng chính là lymphôm Hodgkin và lymphôm không Hodgkin. Ung thư hạch loại không Hodgkin nhiều gấp 5 lần loại Hodgkin.

    Khi bị ung thư Hodgkin, các tế bào trong hệ bạch huyết trở nên bất thường, chúng sinh sôi nảy nở rất nhanh và sinh sản vô trật tự. Hệ bạch huyết hiện diện ở nhiều cơ quan, bộ phận của cơ thể, do đó khi ung thư bạch huyết xuất hiện, nó có thể xuất hiện tại bất cứ vị trí nào của cơ thể.
    Bệnh Hodgkin có thể khởi phát từ một hay nhiều hạch bạch huyết, hoặc từ một bộ phận chứa hạch bạch huyết như lá lách hoặc tủy xương. Loại ung thư này thường phát triển từ nhóm hạch bạch huyết này sang nhóm hạch kế cận. Ví dụ, bệnh Hodgkin khởi phát từ hạch bạch huyết ở cổ sẽ lan đến những hạch bạch huyết ở vùng lân cận như vùng xương đòn, sau đó lan đến những hạch bạch huyết dưới nách và lồng ngực. Cuối cùng, bệnh sẽ lan rộng đến khắp cơ thể.

    A. Các yếu tố gia tăng nguy cơ bị bệnh Hodgkin:

    Tuy nguyên nhân gây bệnh Hodgkin chưa biết rõ, cũng đã xác định được một số yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh:
    • Tuổi và giới tính: Bệnh Hodgkin thường gặp ở những người tuổi từ 15-34 và trên 55 tuổi, nam nhiều gấp đôi nữ
    • Người có thân nhân bị Hodgkin có nguy cơ bị ung thư Hodgkin cao hơn những người khác
    Nhiễm trùng: Virus Epstein-Barr (EBV) có thể gia tăng nguy cơ mắc bệnh Hodgkin.
    Người bị suy yếu hệ miễn dịch do bất kỳ nguyên nhân nào (HIV/AIDS, do sử dụng thuốc, sau đợt điều trị ung thư, do mẹ truyền sang con...)

    Tuy nhiên, cũng có những trường hợp bệnh Hodgkin mà không thấy các yếu tố nguy cơ trên.

    B. Triệu chứng:

    • Phì đại (nhưng không đau) các hạch bạch huyết ở cổ, nách, háng
    • Sốt hồi quy không rõ nguyên nhân
    • Ra mồ hôi ban đêm
    • Sút cân
    • Ngứa ngáy

    Các triệu chứng này không nhất thiết phải do bệnh Hodgkin gây ra, nhưng nên đi khám để tìm nguyên nhân.
    Đừng đợi đến khi hạch bạch huyết trở nên đau.
    Bệnh Hodgkin lúc khởi đầu thường không gây đau.

    C. Chẩn Đoán:

    Ngoài việc hỏi bệnh sử, cần khám tổng quát để phát hiện tình trạng phì đại các hạch bạch huyết. Có thể dùng thêm một số xét nghiệm để chẩn đoán như:
    • Xquang phổi, xương
    • Siêu âm bụng
    • CT scan nhiều bộ phận của cơ thể
    • MRI nhiều bộ phận của cơ thể
    • Gallium scan
    • PET (Positron Emission Tomography) scan
    • Chụp mạch bạch huyết (lymphangiogram): Tiêm một loại hóa chất cản quang vào tĩnh mạch, rồi chụp Xquang để có được hình ảnh của hạch và mạch bạch huyết
    • Sinh thiết hạch bạch huyết để xét nghiệm, tìm dấu vết các tế bào Reed-Sternberg, là những tế bào bất thường, rất lớn thường gặp trong bệnh Hodgkin. Số lượng tế bào càng cao, ung thư càng nặng.
    • Xét nghiệm tuỷ đồ



    H7- Tế bào Reed-Sternberg

    Giải phẫu bệnh lý: có giá trị chẩn đoán quyết định, phân loại thể bệnh và mức độ ác tính:

    - Là tổ chức Sternberg (tổ chức hạt)
    - Tổ chức này gồm: tế bào Sternberg, các lymphocytes, eosinophile, neutrophile, plasmocyte, tế bào sợi...
    - Tế bào Sternberg là tế bào đặc trưng: kích thước 30-60µm, nguyên sinh chất nhiều bắt màu kiềm, có từ 1-3 nhân. Nhân có hạt nhân và khoảng sáng quanh nhân. Đây là các tế bào dòng lympho: chúng phát triển mạnh làm đảo lộn, phá vỡ cấu trúc hạch, các vỏ xơ bao quanh hạch bị phá huỷ.


    H8- Tế bào Reed-Sternberg

    - Tế bào Lympho biến đổi về hình thái, mang đặc điểm của tế bào ung thư: nhân lớn, nhân quái, nhân đang phân chia.
    * Tóm lại:
    +Hodgkin=tế bào Sternberg, tế bào viêm (N, E, P).
    +Non Hodgkin: lymphoblast hình thù quái dị.


    H9- Tế bào Reed-Sternberg

    D. Xác định giai đoạn của ung thư:

    Sau khi chẩn đoán bệnh Hodgkin, cần xác định giai đoạn của ung thư, xem ung thư đã di căn chưa, và nếu có, đã di căn đến đâu, trước khi quyết định điều trị.
    -Có bao nhiêu vị trí hạch bạch huyết đã bị ung thư?
    -Các hạch bạch huyết đã ung thư hoá này nằm ở vị trí nào của cơ thể?
    -Các khối hạch nằm ở một bên hay cả hai bên cơ hoành?
    -Ung thư đã di căn đến tủy xương, lách?
    -Đã di căn đến những bộ phận khác (ngoài các bộ phận chính của hệ bạch huyết) như gan?

    Giai đoạn

    “Giai đoạn” là một thuật ngữ dùng để mô tả kích thước, vị trí của ung thư và có di căn hay không. Điều này rất quan trọng bởi vì loại điều trị được áp dụng cho bệnh nhân phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Hệ thống phân loại của bệnh Hodgkin là:
    Giai đoạn I: Một nhóm các hạch bạch huyết bị ảnh hưởng nhưng u lympho chỉ ở một phía của cơ hoành.
    Giai đoạn II: Hai hoặc nhiều hơn các nhóm hạch bạch huyết bị ảnh hưởng và u lympho chỉ bị ở một phía của cơ hoành.
    Giai đoạn III: Có các tế bào u lympho trong các hạch bạch huyết ở trên và dưới cơ hoành. Lách cũng có thể bị tổn thương.
    Giai đoạn IV: U lympho đã lan tràn ra ngoài các hạch bạch huyết, ví dụ như đến gan, phổi hoặc tuỷ xương.


    H10- Các giai đoạn của bệnh Hodgkin

    Cùng với việc đánh số cho mỗi giai đoạn, các bác sĩ còn sử dụng một mã ký tự, chữ A hoặc B để cho biết bệnh nhi có những triệu chứng cụ thể như sốt, giảm cân đáng kể (hơn 1/10 trọng lượng cơ thể trong 6 tháng gần đây nhất) hoặc ra mồ hôi ban đêm. Nếu bệnh nhân không có những triệu chứng đó thì u lympho sẽ được phân loại là A, còn nếu chúng có những triệu chứng đó thì được xếp độ là B.

    Khi khám ung thư định kỳ, có thể cần dùng các xét nghiệm trên hoặc sinh thiết gan, tủy xương, và những bộ phận khác.

    Khi sinh thiết tủy xương: Dùng một kim dài, đâm xuyên qua lớp cơ đến xương chậu để hút tủy xương. Đôi khi, cần phải dùng đến phương pháp nội soi ổ bụng để lấy mô làm sinh thiết


    E. Điều trị:

    1. Chuẩn bị cho việc chữa trị.

    Người bị bệnh Hodgkin nên tiêm phòng cúm, viêm phổi, viêm màng não.

    2. Các phương thức điều trị: Xạ trị và hóa trị là hai phương thức điều trị thông thường nhất. Các phương pháp điều trị khác như cấy ghép tủy xương, ghép tế bào gốc, và trị liệu sinh học (biological therapy), điều trị trúng mục tiêu (target therapy) còn đang trong vòng thử nghiệm lâm sàng (clinical trial).

    3. Xạ Trị: Dùng tia xạ để thiêu huỷ tế bào ung thư. Tùy theo giai đoạn của bệnh, có thể dùng xạ trị đơn độc hoặc kết hợp với hoá trị liệu. Tia xạ dùng điều trị bệnh Hodgkin là tia ngoài. Dùng máy chiếu tia xạ nhắm tới một bộ phận của cơ thể để điều trị tại chỗ khối u (local therapy)

    4. Hóa trị: Phối hợp nhiều loại hóa chất (combination chemotherapy) để điều trị bệnh Hodgkin theo từng đợt. Đa số các hóa chất đều được dùng tiêm truyền tĩnh mạch, một vài loại thuốc dùng đường uống. Thuốc theo máu luân lưu khắp cơ thể, nên được xem là điều trị toàn thân (systemic therapy).

    Sau đây là một số phác đồ điều trị đầu tay bệnh Hodgkin (Hodgkin's lymphoma).
    • Phác đồ MOPP (mechlorethamine, vincristine, procarbazine, prednisone) do Vincent DeVita và các đồng sự phát triển vào những năm 1960, chủ yếu có vai trò lịch sử.
    • Phác đồ ABVD (Adriamycin, bleomycin, vinblastine, dacarbazine) do Gianni Bonadonna và các đồng sự phát triển vào những năm 1970. Phối hợp này hiện đang là phác đồ điều trị chuẩn cho bệnh Hodgkin.
    • Phác đồ Stanford V (doxorubicin, vinblastine, mustard, bleomycin, vincristine, etoposide, prednisone) phát triển tại đại học Stanford University bởi Sandra Horning và các đồng sự. Dùng phối hợp nhiều thuốc trong một thời gian ngắn để giảm bớt tác dụng phụ
    • Phác đồ BEACOPP (bleomycin, etoposide, doxorubicin, cyclophosphamide, vincristine, procarbazine, prednisone) được phát triển ở Đức bởi Volker Diehl và đồng sự.
    • Các phác đồ điều trị cứu nguy: Dùng khi các phác đồ điều trị đầu tay thất bại:
    + ICE (ifosfamide, carboplatin, etoposide),
    + DHAP (cisplatin, cytarabine, prednisone), và
    + ESHAP (etoposide, methylprednisolone, cytarabine, cisplatin).
    + EPOCH (etoposide, vincristine, doxorubicin, cyclophosphamide, Prednisone)


    F. Biến chứng:

    Khi điều trị bệnh Hodgkin, thường dùng các liệu pháp đủ mạnh để diệt tế bào ung thư, nhưng cũng gây tổn thương cả những tế bào bình thường, do đó sẽ gây ra nhiều biến chứng. Các biến chứng thường tùy thuộc vào loại hóa chất, liều lượng, cùng với lượng tia xạ sử dụng. Có thể phối hợp thêm các loại thuốc giảm đau, chống nôn v.v. để giúp bệnh nhân chịu đựng được việc điều trị.

    1. Xạ Trị: Biến chứng tùy thuộc vào vị trí cơ thể được điều trị, bệnh nhân thường yếu sức và mệt mỏi:
    • Rụng tóc, rụng lông, viêm đỏ, khô rát, thẫm màu nơi vùng da chiếu tia
    • Xạ trị vùng cổ, ngực: khô, rát họng, nuốt khó, ho khan, khó thở
    • Xạ trị vùng bụng: buồn nôn, nôn, tiêu chảy, tiểu rát
    • Xạ trị vùng xương chậu: Mất máu, dễ nhiễm trùng hoặc xuất huyết.
    Khi xảy ra các biến chứng này, nên ngưng xạ trị một thời gian cho tủy xương hồi phục trước khi tiếp tục điều trị

    2. Hóa Trị Liệu: Tùy theo loại hóa chất và liều lượng thuốc sử dụng. Nhìn chung, các loại hóa chất điều trị bệnh Hodgkin thường ảnh hưởng đến những tế bào có tốc độ tăng trưởng nhanh của cơ thể. Các tế bào đó là:
    • Tế bào máu: bạch cầu (giúp cơ thể chống lại sự nhiễm trùng), tiểu cầu (làm đông máu), hồng cầu (đem oxygen đi khắp cơ thể). Các tế bào máu bị hủy hoại khiến bệnh nhân thường dễ bị nhiễm trùng, xuất huyết (do máu không đông), và cảm thấy yếu sức, mệt mỏi (do thiếu máu, thiếu oxygen).
    • Tế bào ở chân tóc bị hủy hoại gây rụng tóc. Tóc có thể mọc trở lại nhưng màu tóc và sợi tóc có thể thay đổi.
    • Niêm mạc hệ tiêu hóa (từ miệng đến hậu môn): bệnh nhân bị lở miệng, môi, tiêu chảy, biếng ăn.

    3. Cấy ghép tủy xương (bone marrow transplantation): Khi phải điều trị với một lượng hóa chất và tia xạ quá cao, các bệnh nhân thường bị nhiễm trùng, xuất huyết và kiệt sức. Ngoài ra, tế bào tủy dùng cho ghép có thể phản ứng lại với cơ thể (graft-versus-host disease, GVHD), nhất là trong trường hợp dị ghép (tế bào ghép đến từ người hiến tặng).
    Khi xảy ra GVHD, gan, da, và bộ phận tiêu hóa bị ảnh hưởng. Triệu chứng của GVHD có thể nhẹ (tiêu chảy, da tấy đỏ) hoặc rất nặng (viêm gan) và xảy ra ở bất cứ thời điểm nào trong thời gian ghép tủy, ngay cả nhiều năm sau khi điều trị. Dùng steroid để điều trị phản ứng này.

    4. Trị liệu Sinh học: Các biến chứng thông thường như da ngứa ngáy, tấy đỏ, sốt, đau cơ, nhức đầu, là những triệu chứng tương tự cảm cúm (nên gọi là "flu-like"). Ngoài ra, bệnh nhân còn có thể dễ bị chảy máu, giữ nước.

    5. Phẫu Thuật: Biến chứng tùy thuộc vào vị trí mổ, phương pháp phẫu thuật và tình trạng sức khoẻ chung của bệnh nhân. Biến chứng thường gặp là mất sức, mệt mỏi nhiều ngày sau phẫu thuật.

    G. Những tác dụng phụ muộn

    Một số ít trẻ em có thể gặp những tác dụng phụ sau nhiều năm. Các tác dụng phụ đó bao gồm sự giảm phát triển xương, thay đổi chức năng của tim và phổi, tăng nguy cơ phát triển các bệnh ung thư khác trong thời gian sau của cuộc đời.
    Sau khi điều trị bằng hoá chất, một số trẻ em (đặc biệt là các bé trai) có thể bị vô sinh. Cha mẹ của các cậu bé lứa tuổi thanh thiếu niên có thể tính đến việc sử dụng ngân hàng tinh trùng trước khi việc điều trị bắt đầu. Khi đó, tinh trùng sẽ được lưu giữ, bảo quản để có thể sử dụng trong những năm sau này.
    Bác sĩ của bệnh nhi cần giải thích thật kỹ về các tác dụng phụ muộn bất kỳ nào đó

    H- Tiếp tục theo dõi

    Khoảng 9/10 trẻ em bị u lympho Hodgkin được chữa khỏi. Nếu ung thư tái phát, cần phải điều trị với liều cao hơn hoặc sử dụng các loại thuốc khác.
    Sau khi kết thúc việc điều trị, bệnh nhi sẽ được kiểm tra thường xuyên bằng chụp cắt lớp vi tính và các xét nghiệm huyết học tại bệnh viện.
    Nếu gia đình bệnh nhi có những lo lắng riêng về tình trạng và việc điều trị của con mình, thì nên thảo luận với bác sĩ điều trị, là người hiểu rõ về bệnh trạng của trẻ.
    Trường hợp người bệnh đang có thai, tùy tình huống, BS có thể cho nạo phá thai hoặc cho sanh sớm hơn dự định. Thai kỳ cũng là một yếu tố làm bùng phát bệnh Hodgkin. Bệnh nhân chỉ được phép có thai trở lại khi bệnh đã được điều trị khỏi hoàn toàn và không cần sử dụng bất kỳ phương thức điều trị nào khác trong khoảng thời gian tối thiểu là 3 năm.

    Hóa trị & xạ trị đều gây suy yếu hệ thống miễn dịch. Do đó, song song với việc điều trị, bệnh nhân nhất thiết phải được nghỉ ngơi hoàn toàn để phòng tránh các bệnh cơ hội khác như cảm lạnh, cúm hoặc các viêm nhiễm hô hấp, tiêu chảy, Nên phòng tránh các vết cắt, trầy xước hoặc chấn thương có thể xảy ra trong quá trình tập thể dục. Nên tích cực vận động sớm, sau mỗi đợt điều trị
    Một vài bệnh nhân bị suy sụp tinh thần sau những đợt điều trị, lúc đó vai trò của các BS tâm lý là rất cần thiết. Người bệnh nên tham gia vào các hoạt động xã hội, hiệp hội hoặc các nhóm bệnh nhân cùng cảnh ngộ để cùng trao đổi với nhau tất cả những kinh nghiệm về bệnh và tâm tư tình cảm của mình.

    Việc tái khám định kỳ rất quan trọng. Hầu hết lymphôm Hodgkin không tái phát sau điều trị. Tuy nhiên cũng có một số ít trường hợp bị tái phát. Sau khi điều trị, hầu hết các bệnh nhân Hodgkin đều trở về cuộc sống bình thường, vẫn có thể lập gia đình và sinh sản như những người khác.


    II- U LYMPHO KHÔNG HODGKIN (Non Hodgkin Lymphoma)

    U lymphô không Hodgkin nguyên phát là loại bệnh lý ung thư của hệ tạo huyết.


    H11- Hệ bạch huyết (amidan, lách, ruột, da, tuỷ xương, các mạch bạch huyết)


    H12- Hệ bạch huyết (gan, lách, các hạch bạch huyết, mạch bạch huyết) và cơ hoành


    H13- Các cụm hạch bạch huyết: mặt, cổ, thượng đòn, nách, trung thất, lách, mạc treo, cạnh động mạch chủ, chậu, đùi, bẹn v.v.

    Tên gọi còn xa lạ với nhiều người, song bệnh này lại khá phổ biến.

    Tại Mỹ, năm 2006 có 58.870 trường hợp mới và 18.840 ca tử vong.


    H14- Một trong những bệnh nhân tử vong vì lymphoma non-Hodgkin

    Tại TP.HCM năm 2003, tỷ lệ bệnh ở nam giới là 4,6/100.000 dân và ở nữ giới là 3,2/100.000 dân. Bệnh Viện Ung Bướu TP.HCM mỗi năm tiếp nhận khoảng 500 trường hợp bệnh mới.

    Được hình thành từ những rối loạn của dòng tế bào lymphô, bệnh thường hay xuất phát đầu tiên tại hạch. Ung thư hạch được xếp thành 2 nhóm lớn: nhóm có diễn tiến chậm, thời gian sống sót hơn 10 năm và nhóm có diễn tiến nhanh nên thời gian sống sót ngắn hơn.


    H15- Các loại tế bào bạch huyết


    H16- Phân loại lymphoma non-Hodgkin

    H17- Lymphoma Burkitt


    H18- Hình ảnh giải phẫu bệnh của lymphoma Burkitt


    Hiện vẫn chưa xác định được nguyên nhân gây bệnh. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã cho thấy có một số yếu tố nguy cơ:

    - Suy giảm miễn dịch do nhiễm HIV, do dùng thuốc chống thải ghép...

    - Nhiễm trùng (HIV, Helicobacter pylori, HCV...).

    - Tuổi trên 60.

    - Các yếu tố khác như béo phì, ngộ độc thuốc diệt cỏ, dioxin v.v.

    H19- Bệnh nhân nhiễm HIV kèm lymphoma non-Hodgkin

    Về triệu chứng: nổi hạch, sụt cân, sốt kéo dài, ho, khó thở , đau ngực, mệt mỏi, suy kiệt kéo dài, đau trướng bụng, đầy bụng.

    Khi các triệu chứng kéo dài quá 2 tuần thì phải đi khám để tìm nguyên nhân.

    Click this bar to view the full image.

    H20- Bệnh nhân lymphoma non-Hodgkin

    A- Xác định bệnh

    Lymphô không Hodgkin là một bệnh toàn thân rất khó chẩn đoán, cần phải khám lâm sàng (cổ, nách, bẹn, bụng), làm xét nghiệm máu, chụp X-quang ngực, siêu âm bụng, làm sinh thiết hạch.

    H21- Hình ảnh CT scan phát hiện non-Hodgkin lymphoma


    H22- Hình ảnh PET scan của bệnh nhân non-Hodgkin lymphoma

    B- Điều trị

    Lymphô không Hodgkin là một trong những loại ung thư có khả năng trị khỏi, cả trong giai đoạn muộn; ngay cả khi ung thư đã di căn thì vẫn còn đến 40% khả năng đáp ứng điều trị lâu dài.

    Khi đã xác định bị ung thư, việc xác định giai đoạn lâm sàng giúp cho việc tiên lượng bệnh. Các xét nghiệm cần làm là CT scan, MRI, siêu âm, làm tủy đồ. Bệnh có 4 giai đoạn: 1, 2, 3, 4. Ký hiệu A có nghĩa là không có triệu chứng, còn B là có triệu chứng (sốt, đổ mồ hôi đêm, sụt cân).

    C- Các phương pháp điều trị

    Lymphô không Hodgkin có đến 35 thể bệnh khác nhau, phương pháp điều trị cũng khác nhau. Một số trường hợp chỉ bắt đầu điều trị khi có triệu chứng. Phác đồ điều trị tùy thuộc vào diễn tiến và giai đoạn bệnh.
    - Xạ trị: có vai trò trong một số ca bệnh ở giai đoạn 1.
    - Hóa trị: là liệu pháp chủ yếu (truyền hóa chất qua đường tĩnh mạch hay uống hóa chất viên).
    - Phương pháp điều trị đúng mục tiêu: là liệu pháp tiên tiến với các dược phẩm mới hữu hiệu, lại ít gây tác dụng phụ như rituximab (Mab-Thera). Tuy nhiên giá thuốc rất cao (khoảng 30 triệu đồng/lần điều trị).

    - Ghép tế bào gốc (ghép tủy): được dùng trong các trường hợp có tiên lượng rất xấu, hoặc tái phát, hoặc không đáp ứng với điều trị.

    Tại sao cần phân biệt lymphoma Hodgkin và non-Hodgkin mặc dù các bệnh cảnh lâm sàng và phương thức điều trị gần như giống nhau?
    Vấn đề là ở chỗ tỷ lệ điều trị thành công cao hay thấp.
    Nếu bệnh nhân được chẩn đoán là non-Hodgkin và được điều trị triệt để, tỷ lệ điều trị dứt bệnh là trên 70%.
    Tỷ lệ này tăng lên đến trên 90% trong một số trường hợp ung thư hạch, đặc biệt trong nhóm non-Hodgkin.


    Albatros

    Xem chi tiết…

    Nẹp khí quản nhân tạo: Thành tựu mới của y học hiện đại

    Một em bé người Mỹ đã được cứu sống nhờ việc sử dụng nẹp khí quản nhân tạo, đó là sản phẩm được làm ra từ máy in 3D

    Cậu bé Kaiba 20 tháng tuổi, con trai anh Bryan Gionfriddo, trước đây đã bị mắc một chứng bệnh hiếm gặp có tên khoa học là tracheobronchomalacia, khiến phế quản của cậu bé bị sập và hơi thở bị chặn lại. Tuy nhiên, "Các bác sỹ đã nói rằng thằng bé vẫn còn cơ hội sống sót", mẹ của Kaiba cho biết.
    nep khi quan

    Hãng tin Upi cho biết các bác sĩ tại Bệnh viện Nhi C.S. Mot đã được sự đồng ý đặc biệt khẩn cấp từ Cục Quản lý Thực phẩm và Dược cho phép phẫu thuật khâu thanh nẹp được "in" từ máy in 3D vào khí quản của Kaiba. Sau khi tiến hành chụp CT khí quản bị hư của cậu bé, các bác sĩ đã sử dụng máy in 3D để in 100 ống nhỏ và nhờ tia laser khâu chúng lại với nhau trong khí quản của cậu bé.

    Giáo sư Tiến sĩ Glenn Green thuộc Đại học Michigan cho biết: "Thật tuyệt vời! Ngay sau khi thanh nẹp được đưa vào, phổi của bé đã bắt đầu hoạt động lên xuống và chúng tôi biết cậu bé sẽ ổn thôi". Ông là người đã đưa ra ý tưởng này cũng với đối tác của mình là Tiến sĩ Scott Hollister.

    Thanh nẹp khí quản sử dụng trong ca phẫu thuật trên được làm từ một chất polymer sinh học có tên gọi là polycaprolactone. Sẽ mất khoảng ba năm để chất polymer này tự thoái. Thời gian đó đủ dài để cho khí quản của bé Kaiba phát triển khỏe mạnh cùng với thanh nẹp có tác dụng như một bộ xương chống đỡ cho những đoạn sụn bị sập trong khí quản.

    Kaiba đã ngừng thở máy 21 ngày sau ca phẫu thuật. Kể từ đó, cậu bé không còn bị khó thở nữa. Trước khi những ống nhỏ polycaprolactone được đưa vào khí quản, Kaiba thường xuyên bị ngừng thở và cần được hô hấp nhân tạo hàng ngày. Lần đầu tiên bé gặp hiện tượng này là khi được sáu tuần tuổi. Lúc đó, da của Kaiba bị chuyển sang màu xanh.

    "Ngay cả với các phương pháp điều trị tốt nhất hiện có, cậu bé vẫn sẽ phải tiếp tục chịu đựng những hiện tượng trên. Cậu bé đã suýt nữa phải đi gặp thần chết", Giáo sư Tiến sỹ Green cho biết.

    Riêng Tiến sỹ Hollister thì cho rằng trường hợp Kaiba "chắc chắn là dấu mốc nổi bật" trong sự nghiệp của ông. Tập san y học hàng đầu New England Journal of Medicine cũng liệt kê ca phẫu thuật này là một trong những sự kiện tiêu biểu của nền y học.
    Xem chi tiết…

    Tổng quan về u trung thất

    Trung thất có vị trí nằm ở vùng giữa lồng ngực và được giới hạn bởi các túi màng phổi ở xung quanh. Trung thất có thể được chia thành 3 phần (khu vực): trung thất trước, trung thất giữatrung thất sau.


    Có rất nhiều nguyên nhân gây u trung thất như: u tuyến giáp, u tuyến ức, kén khí quản, u lympho, hạch di căn, u phế quản, u quái... Tùy theo vị trí, u trung thất có thể có các biểu hiện lâm sàng như: hội chứng chèn ép tĩnh mạch chủ trên, chèn ép dây thần kính quặt ngược, dây giao cảm cổ, chèn ép thực quản.

    Để chẩn đoán xác định u trung thất cần dựa vào các biểu hiện lâm sàng như

    - Biểu hiện chèn ép tĩnh mạch chủ trên: bệnh nhân có phù mặt, cổ bạnh to, hố thượng đòn đầy, hình ảnh nổi rõ các mạch máu trên ngực, cánh tay phù to.

    - Biểu hiện chèn ép thực quản: nuốt khó, nuốt nghẹn.

    - Biểu hiện chèn ép khí quản: khó thở, thở rít.

    - Biểu hiện chèn ép dây thần kính quặt ngược: nói khàn, nói giọng đôi.

    - Biểu hiện chèn ép dây thần kinh giao cảm cổ: sụp mi, hẹp khe mắt, co đồng tử, bừng nóng 1/2 mặt.

    - Và nhiều hiểu hiện lâm sàng khác.

    Bên cạnh việc thăm khám phát hiện các triệu chứng lâm sàng, việc chẩn đoán xác định các u trung thất thường có sự góp phần không nhỏ của các thăm dò chẩn đoán hình ảnh. Các xét nghiệm này bao gồm: chụp X quang phổi và chụp cắt lớp vi tính ngực.

    Chụp X quang phổi thường chỉ cho thấy hình ảnh trung thất rộng, hình ảnh chèn ép khí quản, hoặc đẩy lệch trung thất, hình ảnh hạch trung thất.

    Để đánh giá chi tiết hơn cần dựa vào chụp cắt lớp vi tính ngực có tiêm thuốc cản quang. Các thông tin ghi nhận thường bao gồm: hình ảnh u trung thất, tình trạng chèn ép, xâm lấn vào các tổ chức lân cận như khí quản, thực quản, tim và các mạch máu lớn trung thất...

    Có rất nhiều loại u trung thất khác nhau: u mỡ trung thất, nang, kén trung thất lành tính, biếu giáp chìm, u tuyến ức, ung thư khí quản... Để xác định chính xác loại u trung thất thường cần dựa vào xét nghiệm tế bào. Các thăm dò lấy bệnh phẩm cho xét nghiệm tế bào bao gồm: chọc hút khối u trung thất xuyên thành khí phế quản qua nội soi, sinh thiết u qua nội soi trung thất, phẫu thuật mở trung thất hoặc sinh thiết khối u trung thất xuyên thành ngực dưới hướng dẫn của chụp cắt lớp vi tính hoặc chiếu x quang tim phổi.

    ThS. Nguyễn Thanh Hồi - Khoa Hô Hấp Bệnh viện Bạch Mai
    Xem chi tiết…