Có năm chỉ định chính : tắc đường dẫn khí, sự hấp thụ oxy không thích đáng, sự thông khí không thích đáng, công hô hấp gia tăng và “ bảo vệ đường dẫn khí ” (airway protection).
Xem thêm >
ung thư khí quản
Tắc đường dẫn khí (airway obstruction). Nếu đường dẫn khí bị tắc và không thể mở được với những thao tác được mô tả trên đây, phải nội thông khí quản.
Sự hấp thụ oxy không thích đáng (inadequate oxygenation). Nội thông khí quản nên được xét đến nếu nồng độ bảo hòa oxy của bệnh nhân dưới 90%, mặc đầu sử dụng oxy lưu lượng cao (high-flow oxygen) được cho qua một mặt nạ mặt (face mask). Oxy 100% chỉ có thể được cho một cách đáng tin cậy với một ống nội thông khí quản.
Những yếu tố khác phải được xét đến là sự thích đáng của lưu lượng tim, nồng độ Hb trong máu, sự hiện diện của giảm oxy-huyết mãn tính, và lý do bị giảm oxy-huyết.Ví dụ, những bệnh nhân với giảm oxy-huyết do các nối tắc phải-trái (right-to-left shunts) trong tim có thể có giảm oxy-huyết mãn tính (chronic hypoxemia). Cơ thể thường thích nghi bằng cách gia tăng nồng độ Hb trong máu. Vì có nối tắc trong tim (intracardiac shunt), việc cho oxy 100% với một ống nội thông khí quản có thể không hữu hiệu trong sự nâng cao độ bảo hòa oxy (oxygen saturation).
Sự thông khí không thích đáng (inadequate ventilation). Với sự giảm thông khí (hypoventilation), pC02 dần dần tăng cao, làm hạ pH của máu (nhiễm toan hô hấp).Với nồng độ C02 tăng cao dần, bệnh nhân cuối cùng bị hôn mê (CO2 narcosis). pH toàn thể thấp có thể được liên kết với tính kích thích và co bóp bất thường của cơ tim. Nếu những biến cố này xảy ra, bệnh nhân có thể cần phải được nội thông khí quản và thông khí cơ học. Sự thông khí hỗ trợ (assisted ventilation) cũng có thể được thực hiện mà không cần nội thông khí quản, nhưng trong hầu hết các bệnh nhân, mục đích này dễ đạt được hơn với nội thông khí quản.
Mức độ chính xác của pH hay pC02 đòi hỏi thông khí hỗ trợ, phải được xác định đối với mỗi bệnh nhân. Những yếu tố quan trọng gồm có nguyên nhân của sự giảm thông khí và tính mãn tính của nó. Nhiễm toan hô hấp mãn tính (ví dụ nơi một bệnh nhân với bệnh phổi tắc mãn tính) thường được dung nạp tốt hơn so với nhiễm toan hô hấp cấp tính. Thiếu máu cục bộ cơ tim, suy tim sung huyết, và gia tăng áp lực nội sọ là vài yếu tố làm dễ sự sử dụng thông khí cơ học sớm hơn.
Gia tăng công hô hấp. Bình thường các cơ hô hấp đảm trách dưới 5% sự tiêu thụ oxy toàn cơ thể. Nơi những bệnh nhân với suy hô hấp, điều này có thể gia tăng lên đến 40%. Có thể khó đánh giá công hô hấp bằng thăm khám lâm sàng.
Tuy nhiên những bệnh nhân có hơi thở nhanh và nông, sự sử dụng các cơ phụ hô hấp, hay hô hấp nghịch lý, ta có thể tiên đoán một công hô hấp cao. Khí huyết động mạch (pH, pC02, và p02) có thể bình thường nơi những bệnh nhân như thế. Nhiên hậu, các cơ hô hấp mệt và suy, gây nên sự hấp thu oxy và thông khí không thích đáng. Nội thông khí quản và thông khí cơ học là cần thiết để làm giảm công hô hấp. Thông khí cơ học đôi khi có thể thực hiện mà không cần nội thông khí quản, nhưng đáng tin cậy hơn nếu được thực hiện với nội thông.
Bảo vệ đường dẫn khí. Nơi bệnh nhân thức tỉnh, các phản xạ bảo vệ của đường dẫn khí bình thường ngăn ngừa hít dịch dạ dày vào phổi. Những bệnh nhân với trạng thái tâm thần bị biến đổi do một số nguyên nhân có thể mất những phản xạ bảo vệ này.
Việc mất các phản xạ bảo vệ đường dẫn khí khiến họ có nguy cơ cao bị viêm phổi do hít dịch (aspirartion pneumonia), được liên kết với tỷ lệ bệnh và tử vong gia tăng. Nội thông khí quản với một ống thông có bóng nhỏ (cuffed tube) có thể làm giảm nguy cơ hít dịch. Tuy nhiên nó không thể hoàn toàn ngăn ngừa sự hít dịch, bởi vì các chất lỏng còn có thể rò quanh quả bóng nhỏ của ống nội thông khí quản.
Nguồn sưu tầm